Cách dùng than hoạt tính khi ngộ độc thực phẩm

Than hoạt tính thường được sử dụng trong dân gian để điều trị một số bệnh như ăn uống khó tiêu, đầy hơi, chướng bụng… Tuy được coi là thuốc rẻ tiền nhưng nó lại luôn được xem là thuốc đầu tay trong cấp cứu ngộ độc thực phẩm, đặc biệt trong điều trị và xử lý ngộ độc nấm độc. Mới đây, Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) đã công bố “Hướng dẫn sử dụng than hoạt tính trong phòng chống ngộ độc thực phẩm”. Xin giới thiệu để bạn đọc biết và tham khảo.

Than hoạt tính thường được làm từ gỗ hoặc từ các phế chất hữu cơ khác như xơ dừa, vỏ gáo dừa… Than hoạt tính không độc, khi uống vào không hấp thu vào máu mà thải ra ngoài cơ thể theo phân, có vai trò quan trọng trong xử trí và điều trị ngộ độc thực phẩm. Đặc biệt than hoạt tính đã được các bác sĩ Trung tâm Chống độc - Bệnh viện Bạch Mai dùng trong cấp cứu, điều trị có hiệu quả một số trường hợp ngộ độc nấm độc.

Cách dùng than hoạt tính khi xử trí ngộ độc thực phẩm

Ngộ độc thực phẩm cấp tính do vi sinh vật và độc tố: Thường dùng ở dạng viên nén nhai, viên nang, viên bao đường, với liều thường dùng từ 62,5 - 125 mg/1 lần x 2 - 3 lần/ngày, dùng sau bữa ăn, trong 4 - 5 ngày. Trường hợp ăn khó tiêu, người lớn có thể dùng 125mg/1 lần x 2 - 3 lần/ngày.

Ngộ độc thực phẩm cấp tính do hóa chất: Thường dùng ở dạng bột mịn hoặc dạng nhũ dịch.

Dạng bột mịn: Người lớn dùng 50g, khuấy trong 250ml, lắc kỹ trước khi uống, có thể dùng ống thông dạ dày. Nếu nhiễm độc nặng nhắc lại nhiều lần từ 25 - 50g, cách nhau 4 - 5 giờ. Có thể phải kéo dài đến 48 giờ. Trẻ em dùng 1g/kg thể trọng, Trường hợp nặng có thể lặp lại 4 - 6g.

Dạng nhũ dịch: Liều dùng mỗi ngày đối với người lớn là 200ml, trẻ em 100 ml. Tổng lượng phải dùng có thể từ 1 - 6 lọ hoặc nhiều hơn, tùy vào mức độ ngộ độc. Nếu là ngộ độc nhẹ, chỉ cần dùng 1 lọ, nhưng nếu là ngộ độc nặng (kim loại…), có thể phải dùng 6 lọ trở lên.

Ngộ độc thực phẩm do nấm độc: Người lớn dùng 1g/kg thể trọng, trẻ em 1 - 2 g/kg thể trọng. Trường hợp nặng cho uống than hoạt tính nhiều lần (3 - 4 giờ/1 lần), kèm theo sorbitol (người lớn 6 gói, trẻ em 2 - 4 gói). Than hoạt tính và sorbitol dùng ít nhất trong vòng 3 ngày.

Dùng than hoạt tính dù ở dạng nào phải được thực hiện càng sớm càng tốt, tốt nhất là trong vòng 1-3 giờ sau khi chất độc được đưa vào cơ thể. Thuốc sẽ không còn tác dụng khi chất độc đã ngấm vào máu. Vì vậy, khi nghi ngờ ăn phải chất độc, cần uống thuốc ngay.

Than hoạt tính không độc nhưng lưu ý tác dụng phụ của các thành phần của thuốc khác khi sử dụng dạng biệt dược, vì vậy cần phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, hoặc tham khảo thêm ý kiến của thầy thuốc. Nếu uống quá nhiều than hoạt tính có thể gây táo bón, làm buồn nôn, nôn mửa.

Không nên dùng thường xuyên, lâu dài

Không nên dùng than hoạt tính thường xuyên và lâu dài vì khi uống, trong đường tiêu hóa than hoạt tính không chỉ liên kết các chất độc mà còn làm giảm tác dụng của nhiều chất có lợi trong cơ thể (các men, vitamin, axit amin...).

Không uống than hoạt tính cùng một lúc với các thuốc khác mà nên uống cách nhau khoảng 2 giờ, do thanh hoạt tính có thể hấp phụ loại thuốc dùng chung, dẫn đến làm giảm sự hấp thu thuốc vào máu và làm thuốc kém tác dụng.

Không dùng trong trường hợp bệnh nhân hôn mê sâu, đang cơn co giật, người uống phải xăng dầu, các hóa chất có sắt, axit hay kiềm mạnh. Không dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi.

Theo Cục An toàn thực phẩm

Chuyên gia cảnh báo: Nhiều gia đình mất con vì các bệnh rối loạn chuyển hóa hiếm gặp

Trẻ bị tổn thương não vì mắc bệnh rối loạn chuyển hóa

Mong mỏi mãi mới có được một đứa con, song niềm vui được làm cha mẹ của anh Tuấn- chị Phúc đã không trọn vẹn khi linh cảm những điều bất thường. Anh chị lo lắng vô cùng khi Phương Anh, con gái bé bỏng không có những dấu mốc phát triển như các bạn cùng trang lứa: 5 tháng tuổi bé mới biết hóng chuyện, 9 tháng mới biết ngồi. Mỗi lần đến giờ ăn là một lần cả nhà đánh vật vì bé thường xuyên nôn trớ. Thỉnh thoảng, con lại có biểu hiện co giật, tím tái. Gia đình đưa con đi khám đủ các chuyên khoa từ dinh dưỡng, thần kinh tới phục hồi chức năng tại bệnh viện các tuyến nhưng các bác sĩ đều lắc đầu không tìm ra nguyên nhân.

Trong lúc gần như tuyệt vọng với tình trạng sức khỏe của con gái, anh Tuấn tình cờ quen được người bạn có con trai cũng mắc tình trạng giống như con gái anh và đang được theo dõi tại Trung tâm sàng lọc sơ sinh và quản lý các bệnh hiếm, Bệnh viện Nhi Trung ương. Mừng như “bắt được vàng”, anh Tuấn-chị Phúc vội vàng thu xếp đưa cô con gái 17 tháng tuổi đến Bệnh viện Nhi Trung ương.

Tại đây, sau khi con được các bác sĩ chỉ định làm xét nghiệm để phát hiện các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh, anh Tuấn-chị Phúc mới ngã ngửa khi biết con mắc bệnh Phenylketone niệu (PKU), một trong các bệnh rối loạn chuyển hoá axit amin. Nhưng thật đáng tiếc, do được chẩn đoán muộn, căn bệnh này đã khiến bé Phương Anh có tổn thương về não.

Nhiều gia đình mất con vì chẩn đoán bệnh muộn

Câu chuyện của gia đình cháu Phương Anh chỉ là một trong hàng ngàn trường hợp bệnh lý rối loạn chuyển hóa bẩm sinh hiếm gặp mà các bác sĩ tại Trung tâm sàng lọc sơ sinh và quản lý các bệnh hiếm, Bệnh viện Nhi Trung ương tiếp nhận.

Gắn bó với chuyên ngành rối loạn chuyển hóa bẩm sinh và di truyền lâm sàng, đặc biệt đối với các bệnh hiếm đã trên 15 năm, BS Nguyễn Ngọc Khánh đã chứng kiến nhiều hoàn cảnh thương tâm của các gia đình phải mất con do trẻ mắc rối loạn chuyển hóa bẩm sinh nhưng không được phát hiện bệnh sớm. Câu chuyện của chị Thanh (Quảng Xương, Thanh Hóa) là một trong những trường hợp như vậy.

Năm 2013, chị Thanh vui mừng đón đứa con đầu tiên chào đời. Tuy nhiên, hạnh phúc làm mẹ ngắn chẳng tày gang khi mới được 5 tháng tuổi con gái đã bỏ chị mà đi sau 2 tháng điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Những tưởng hạnh phúc đã mỉm cười với gia đình khi chị lại sinh một bé trai khỏe mạnh.

Thế nhưng 3-4 ngày sau sinh, bé bắt đầu có biểu hiện quấy khóc liên tục, chậm bú, chậm cử động. Cảm thấy bất an nên đến ngày thứ 7, chị Thanh quyết định đưa con đến bệnh viện tỉnh. Vì không tìm ra bệnh nên bệnh viện tỉnh chuyển con chị lên Bệnh viện Nhi trung ương. Tại đây, chị Thanh chết lặng khi nghe bác sĩ thông báo con của chị mắc bệnh rối loạn chuyển hóa axit amin.

Căn bệnh gây hậu quả nghiêm trọng nhưng rất khó chẩn đoán sớm

TS.BS Vũ Chí Dũng- Phụ trách Trung tâm sàng lọc sơ sinh và quản lý các bệnh hiếm cho biết, trẻ sơ sinh mắc PKU hiếm khi biểu hiện triệu chứng ngay, mặc dù đôi khi trẻ biểu hiện ngái ngủ hoặc ăn kém. Nếu không được điều trị, dần dần trẻ sẽ bị khiếm khuyết trí tuệ trong những năm đầu đời, diễn biến bệnh ngày càng nghiêm trọng.Các triệu chứng khác của bệnh bao gồm co giật, buồn nôn và nôn, ban đỏ giống bệnh eczema, da và tóc nhạt màu hơn so với những người trong gia đình, hành vi hung hăng hoặc tự gây thương tích, tăng động và đôi khi có các triệu chứng tâm thần. Trẻ không được điều trị thường cơ thể có mùi hôi như chuột và nước tiểu có mùi do xuất hiện sản phẩm phụ của phenylalanin (axít phenylacetic) trong nước tiểu và mồ hôi.

Theo TS Vũ Chí Dũng, có tới 7000 bệnh di truyền hiếm gặp nhưng không phải tất cả bệnh lý của thai nhi đều được phát hiện từ trong bụng mẹ. Trẻ mắc các bệnh này sinh ra thường không có biểu hiện gì cho đến khi bắt đầu tiếp nhận các chất dinh dưỡng từ bên ngoài. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến bệnh được phát hiện muộn và hầu hết đều không thể được cứu sống.

Lấy máu gót chân trong vòng 36-72 giờ đầu sau sinh của trẻ để làm xét nghiệm

Hiện nay, trung tâm sàng lọc sơ sinh và quản lý các bệnh hiếm Bệnh viện Nhi trung ương là trung tâm duy nhất trong cả nước triển khai đồng bộ các hoạt động tư vấn, xét nghiệm sàng lọc, thăm khám và xét nghiệm khẳng định chẩn đoán, điều trị, theo dõi lâu dài dành cho đối tượng bệnh nhi mắc các bệnh hiếm. Mỗi ngày, tại đây có thể thực hiện sàng lọc cho 500 trẻ với 55 bệnh rối loạn chuyển hóa axit amin, axit hữu cơ, axit béo, một số bệnh dự trữ thể tiêu bào và bệnh nội tiết di truyền.

Các trẻ sàng lọc sơ sinh được lấy máu gót chân trong vòng 36-72 giờ đầu sau sinh để xét nghiệm. Riêng trong năm 2017, đã có 61 trẻ mắc các nhóm bệnh cần điều trị cấp cứu được xác định chẩn đoán sớm.

Các bác sĩ chuyên khoa nội tiết chia sẻ, hầu hết các bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh điều trị đều khó khăn, sử dụng dinh dưỡng đặc biệt, thời gian điều trị lâu dài, thậm chí là cả đời. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp việc điều trị chỉ cần chú ý chế độ ăn uống, bổ sung vitamin B1, B12… là sức khỏe trẻ sẽ ổn định và phát triển bình thường.

Thái Bình

Phòng Ngừa Bệnh Trĩ Dịp Tết Cùng Tottri

Giáp Tết, cả hai vợ chồng anh N quá bận rộn. Cả tuần nay, gia đình nhỏ 4 người nhà anh N chỉ ăn với nhau có 1 bữa tối. Mấy hôm liền, vợ chồng anh N phải nhờ bà ngoại tới nấu cơm cho ăn vì bố đi tất niên với cơ quan bố, mẹ tất niên với cơ quan mẹ cộng thêm tất niên các gia đình ở khu chung cư, nhà ngoại, nhà nội cũng ới sang tất niên...

Tưởng phải tăng cân, béo lên nhưng cả hai vợ chồng anh N đều thấy mệt mỏi, bia, rượu nhiều hơn ăn. Hơn nữa, miền Bắc đang trải qua những ngày rét đậm, rét hại, thời tiết hanh khô, rau không ăn nhiều, nước lười uống nên khốn khổ thay cả hai vợ chồng anh N đều lâm vào tình trạng táo bón kéo dài và bệnh trĩ lại tái phát.

Theo PGS.TS Mai Tất Tố trường đại học Dược hà nội, mắc bệnh trĩ phần lớn là do thói quen ăn uống, sinh hoạt. Bệnh trĩ là tình trạng toàn bộ hệ thống tĩnh mạch bị giãn và suy yếu và hình thành búi trĩ.

Người đã mắc bệnh trĩ dễ bị tái đi tái lại nhiều lần do hệ tĩnh mạch đã giãn rất khó co lại, chỉ cần yếu tố thuận lợi như ăn cay, sinh hoạt không khoa học là bệnh trĩ sẽ tái phát. Khi bệnh trĩ tái phát gây ra rất nhiều phiền toái cho người bệnh: Đau rát, chảy máu, sa búi trĩ rất đau đớn khó chịu. Nguy hiểm nhất , nếu những người trĩ tái phát nhiều lần thì có nguy cơ thành độ nặng 3,4, thậm chí phải phẫu thuật.

Hơn nữa, bị trĩ, đau đớn và nhăn nhó cả ngày, chuyện yêu của hai vợ chồng là điều không tưởng, không ai có hơi sức để nghĩ tới điều đó nữa. Trong khi, Tết đang cận kề, xuân tưng bừng, nhà nhà hồ hởi mà cả hai vợ chồng lại lâm vào tình trạng đứng ngồi không yên do trĩ thì niềm vui xuân không thể trọn vẹn.

Khống chế sự hành hạ của bệnh trĩ với những vị thảo dược quen thuộc

Theo PGS.TS Mai Tất Tố trường đại học Dược hà nội: Để chữa trị và dự phòng sự tái phát bệnh trĩ, ngoài việc điều trị triệu chứng như: làm teo các búi trĩ, chống táo bón, chống chảy máu… phải tập trung vào điều trị gốc bệnh, đặc biệt là phải lấy việc bổ dưỡng tỳ vị làm chính.

“Tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác động đến tỳ vị làm tỳ vị hư yếu mới làm bệnh trĩ bùng phát” - PGS.TS Mai Tất Tố phân tích.

Từ ngàn đời nay, theo Đông y, những người mắc bệnh trĩ thường dùng những bài thuốc cổ từ những vị thuốc như: Hoàng kỳ, Đẳng sâm, Bạch truật, Đương quy, Cam thảo, Ý dĩ giúp bồi bổ tỳ vị, kích thích ăn uống, chữa vào gốc của bệnh trĩ, do đó điều trị triệt để nguyên nhân gây bệnh, sẽ ngăn ngừa bệnh tái phát.

Trong đó: Hoàng kỳ, Thăng ma, Sài hồ giúp tăng trương lực mạch máu do đó làm co búi trĩ, co mạch máu, điều trị tình trạng mạch máu căng dãn quá mức; Liên tử dùng để cầm máu; Đương quy bổ huyết trong trường hợp chảy máu nhiều do trĩ

Ngoài ra, các vị thuốc trong bài bổ trung ích khí gia giảm còn có tác dụng nhuận tràng chống táo bón, ngăn ngừa yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh trĩ.

Theo PGS.TS Mai Tất Tố, bên cạnh việc dùng các vị thuốc điều trị bệnh trĩ cấp tính, điều quan trọng là điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt. Dù không tránh khỏi liên hoan cũng nên cố gắng ăn nhiều rau xanh, uống nhiều nước sử dụng các thực phẩm có tác dụng nhuận tràng… tránh tình trạng táo bón kéo dài.

Tottrilà bài thuốc bổ trung ích khí gia giảm gia truyền của gia đình PGS.TS Mai Tất Tố, Trường đại học Dược Hà Nội chuyển giao cho Công ty Cổ phần TRAPHACO. Tottri kết hợp các vị thuốc có tác dụng bổ tỳ vị trị tận gốc nguyên nhân gây bệnh và các vị thuốc điều trị trĩ dứt điểm triệu chứng bệnh trong đợt cấp tính.

Tottri có ưu điểm cầm máu, co búi trĩ nhanh, giảm đau rát, chống viêm nhiễm, ngăn ngừa trĩ tái phát. Chỉ sau 7 - 10 ngày sử dụng, những triệu chứng trong đợt trĩ cấp được thuyên giảm rõ rệt. Sau đó, bệnh nhân nên điều trị thêm một đợt khoảng 3 tháng để ngăn ngừa trĩ tái phát

Tottri đã được nghiên cứu trên thực nghiệm tại trường Đại học Dược Hà nội và cho các kết quả rất tốt về tác dụng cầm máu, giảm đau và co búi trĩ.

Sử dụng Tottri cùng với một chế độ sinh hoạt hợp lý, bệnh trĩ sẽ không còn là nỗi lo của nhiều người trong dịp Tết

GPQC số: 0735/14/QLD- TT

Thanh Loan

Dấu hiệu nhận diện rối loạn lo âu

Rối loạn lo âu là một trong những chứng bệnh rối loạn tâm lý rất phổ biến. Người bệnh thường rơi vào trạng thái lo âu quá mức trước một tình huống hay sự việc nào đó, thậm chí là một sự lo lắng rất vô lý. Tình trạng này kéo dài liên tục, lặp đi lặp lại và ảnh hưởng đến sự thích nghi của người bệnh với cuộc sống.

Rối loạn lo âu là một trong những chứng bệnh thuộc dạng tâm thần nhẹ phổ biến ở Mỹ, tuy nhiên ở Việt Nam nhiều người vẫn chưa chấp nhận rằng mình bị bệnh tâm thần. Thường có xu hướng né tránh và thường đi khám các chuyên khoa khác như tim mạch, thần kinh, tuy nhiên khi các bác sĩ nói rằng bị các vấn đề về tâm thần và khuyên đi khám tâm thần thì người bệnh không hợp tác.

Điều đáng nói là, rối loạn lo âu thường xảy ra đồng thời với một số bệnh khác như trầm cảm, rối loạn ăn uống, rối loạn hành vi... nên rất nguy hiểm. Bên cạnh những tác hại dễ thấy về tâm lý, khiến người bệnh luôn trong trạng thái sợ hãi, mất niềm tin vào cuộc sống, rối loạn lo âu còn gây ra một số ảnh hưởng đến sức khỏe, điển hình là các vấn đề về tim mạch, rối loạn tiêu hóa, rối loạn giấc ngủ, tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính...

Rối loạn lo âu ngày càng phổ biến ở giới trẻ. Ngoài yếu tố di truyền, hiện nay, bệnh này ngày càng dễ mắc phải là do căng thẳng, áp lực trong cuộc sống. Những dấu hiệu dưới đây giúp mọi người nhận diện bệnh rối loạn lo âu để đi khám và điều trị kịp thời.

Lo lắng quá mức hoặc sợ hãi một cách vô lý là biểu hiện của rối loạn lo âu.

Lo lắng quá mức hoặc sợ hãi một cách vô lý là biểu hiện của rối loạn lo âu.

Lo lắng quá mức và mất kiên nhẫn

Quá lo lắng là dấu hiệu điển hình của rối loạn lo âu. Lo lắng quá nhiều về việc hàng ngày, từ việc lớn đến nhỏ. Người bệnh suy nghĩ, lo lắng kéo dài trên 6 tháng, gây ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống hàng ngày và kèm theo các triệu chứng đáng chú ý như: mệt mỏi, căng cơ, đau nhức toàn người.

Một trong những triệu chứng đầu tiên của rối loạn lo âu đó là không thể kiên nhẫn hay tha thứ cho người khác. Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp sẽ phải gánh chịu cơn thịnh nộ của bạn. Tuy nhiên, sau cùng thì chính bạn mới là người bị cảm xúc của mình giày vò nhiều nhất.

Không thể tập trung vào công việc

Trong thời gian ngắn, căng thẳng có thể thúc đẩy bộ não của bạn tiết ra hormon thúc đẩy trí nhớ và khả năng tập trung. Tuy nhiên, căng thẳng kéo dài sẽ gây ra tác dụng ngược lại và gây mất khả năng tập trung trong công việc hoặc tệ hơn là cả trong lúc lái xe. Trong trường hợp nặng, hormon stress (cortisol) ở nồng độ cao có thể gây suy giảm trí nhớ.

Đứng ngồi không yên

Không thể ngồi yên một chỗ là dấu hiệu rõ ràng của việc bạn đang bị căng thẳng, rối loạn lo âu. Bạn nói nhiều, liên tục vò đầu bứt tai, xoa tay, đi đi lại lại hay đầu óc rối bời bởi rất nhiều suy nghĩ... Phải dừng lại ngay nếu không căng thẳng sẽ kiểm soát bạn. Bởi lẽ, khi mang tâm trạng lo lắng và bản thân không thể tự thư giãn bằng việc đọc một cuốn sách, đi dạo hay nghe nhạc thì chứng tỏ rằng, nỗi sợ và lo âu đang bao trùm toàn bộ tâm trí của bạn. Rối loạn lo âu sẽ khiến cho cảm xúc của chúng ta bị xáo trộn và dần dần sẽ gây tác động xấu tới những bộ phận khác trên cơ thể.

Sợ hãi một cách vô lý

Thường xuyên cảm giác sợ hãi không rõ nguyên nhân có thể trở thành vấn đề tâm lý cực kỳ nghiêm trọng. Sợ hãi, bị ám ảnh bởi những thứ tưởng chừng vô hại như sợ độ cao, sợ động vật, sợ đám đông,… Trong thực tế, người bệnh có thể không phát hiện ra cho đến khi họ phải đối mặt với một tình huống cụ thể và họ không có khả năng khắc phục nỗi sợ hãi. Các triệu chứng như thở hổn hển, tim đập mạnh và nhanh như muốn nhảy khỏi ra lồng ngực, đổ mồ hôi đầm đìa, tê buốt tay, đau ngực, dạ dày khó chịu là những dấu hiệu thường gặp của rối loạn lo âu.

Tùy vào độ ổn định tâm lý, một vài người chỉ mất vài tiếng căng thẳng trong khi số khác mất cả tuần lo lắng trước những buổi thuyết trình đông người. Người bệnh thường có cảm giác mọi ánh mắt như đang đổ dồn vào mình, đồng thời luôn chóng mặt, đau đầu, buồn nôn, đổ mồ hôi hột với tần suất nhiều và làm giảm tự tin trong giao tiếp, đồng thời cản trở việc xây dựng các mối quan hệ xã hội.

Nghi ngờ bản thân

Nghi ngờ hoặc hoài nghi bản thân cũng là một trong những dấu hiệu của bệnh. Biểu hiện của tình trạng này thể hiện bằng việc người bệnh thường tự đặt bản thân trong nhiều giả định, nghi ngờ và các câu hỏi nghi vấn. Hiện tượng này cũng gây ra những vấn đề không nhỏ trong mọi hoạt động sinh hoạt hàng ngày, bởi chúng sẽ khiến tâm lý người bệnh bị ảnh hưởng, thiếu tự tin vào bản thân.

Rối loạn giấc ngủ

Liên tục buồn ngủ hoặc thiếu ngủ đều có những tác động không tốt đối với sức khỏe, đặc biệt làm mất đi trạng thái ổn định tâm lý. Rối loạn lo âu khiến chúng ta thường xuyên gặp ác mộng hay giấc ngủ chập chờn. Đây là một trong những dấu hiệu dễ dàng nhận biết khi bạn đang gặp vấn đề rối loạn lo âu.

Thay đổi khẩu vị, sút cân

Sự thay đổi trong khẩu vị ăn uống chính là tín hiệu cho thấy tinh thần và cảm xúc đang thay đổi. Khi rơi vào trạng thái căng thẳng, nó sẽ khiến cho quá trình trao đổi chất trong cơ thể bị chậm lại và một số người sẽ bắt đầu tăng cân không kiểm soát. Mặt khác, một số người lại bị giảm cân nặng một cách đáng kể nếu quá lo lắng.

Lời khuyên của thầy thuốcCuộc sống với bao bộn bề lo toan khiến sức khỏe tâm thần bị ảnh hưởng. Khi có các dấu hiệu của bệnh rối loạn lo âu, người bệnh nên đi khám chuyên khoa tâm thần để được điều trị kịp thời. Việc chậm trễ trong điều trị sẽ khiến tình trạng ngày càng nặng hơn và ảnh hưởng lan tỏa tới các cơ quan khác trong cơ thể, cũng như tới cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày.

BS. Thanh Tùng

Hắt hơi không kiểm soát

Nguyễn Thúy(Thái Nguyên)

Hắt hơi là triệu chứng thường gặp ở những người bị mắc bệnh viêm mũi dị ứng, viêm mũi vận mạch… bệnh không nguy hiểm nhưng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng cuộc sống của những người bệnh, nhất là những nghề thường xuyên phải giao tiếp trực tiếp như giáo viên, bán hàng,...

Hắt hơi xuất hiện khi niêm mạc mũi bị tác động bởi các yếu tố như gặp thời tiết lạnh, sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm trong môi trường (đôi khi chỉ cần thời tiết sắp thay đổi là những người này đã hắt hơi liên tục); Các chất kích thích (bụi, nấm mốc, mùi hành cay, mùi nước hoa, phấn hoa, mùi thuốc nhuộm trong vải…). Sau khi hắt hơi, có thể người đó lại trở lại hoàn toàn bình thường. Nếu hắt hơi cứ tiếp diễn sau đó sốt, chảy mũi, ngạt mũi, ho, khàn tiếng, thậm chí mất tiếng là biểu hiện của bệnh viêm nhiễm đường hô hấp. Muốn điều trị, bạn cần tìm đúng nguyên nhân để cắt dấu hiệu hắt hơi. Nhưng trước hết để phòng bệnh, bạn cần giữ ấm khi thời tiết chuyển mùa, dùng khẩu trang khi đi đường, tránh tắm và gội đầu vào buổi sáng. Hạn chế tiếp xúc các yếu tố kích thích gây dị ứng.

Vì trong thư bạn nói không rõ hắt hơi có kèm theo các triệu chứng khác không, vì vậy, bạn cần đến cơ sở y tế chuyên khoa tai mũi họng để được khám và tư vấn cụ thể.

BS. Hoàng Sơn

Dấu hiệu nhận biết bệnh thủy đậu

Nguyễn Thùy Liên(thuylien@gmail.com)

Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm do virut Varicella zoster gây ra, thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân và có thể gặp ở bất cứ ai chưa mắc hoặc chưa tiêm vắc-xin thuỷ đậu. Bệnh thường lây chủ yếu qua đường hô hấp, hoặc khi tiếp xúc với dịch từ bọng nước khi vỡ ra của người bệnh. Bệnh biểu hiện: khi khởi phát người bệnh có thể sốt, đau đầu, đau cơ. Sau đó xuất hiện những “nốt phỏng”, các nốt này sẽ tiến triển thành những mụn nước, bóng nước. Nốt thủy đậu có thể mọc khắp toàn thân hay mọc rải rác trên cơ thể, số lượng vài chục đến vài trăm nốt. Trong trường hợp bình thường, những mụn nước khô, trở thành vảy và tự khỏi hoàn toàn… Điều trị bệnh thủy đậu: quan trọng nhất là làm sạch da và vệ sinh thân thể, tắm rửa bằng các dung dịch sát khuẩn, thay quần áo nhiều lần trong ngày, tránh gãi, cọ xát làm các bọng nước bị vỡ. Khi bị thủy đậu, thuốc acyclovir là thuốc lựa chọn hàng đầu, dùng ngay trong 24 giờ đầu hiệu quả rất cao, khống chế bệnh nhanh và khống chế được biến chứng. Ngoài ra, khi bị sốt cao, cần hạ sốt. Bôi hồ nước để làm dịu da khi nốt phỏng chưa vỡ. Khi nốt phỏng vỡ, chỉ bôi các thuốc như xanh metthylen, tím gentna (dung dịch milian) có tác dụng làm khô mặt các tổn thương trên da. Ăn uống tăng cường chất bổ để tạo sức đề kháng cho cơ thể. Điều lưu ý là bệnh có thể gây biến chứng nguy hiểm như: viêm màng não, nhiễm trùng huyết, viêm gan, viêm phổi. Vì vậy, bạn có thể điều trị theo dõi tại nhà nếu bệnh nặng cần đi khám bác sĩ để có hướng điều trị phù hợp.

BS. Vũ Hồng Ngọc

Mùa lạnh, bệnh giãn phế quản dễ tăng nặng

Một số nguyên nhân thường gặp

Giãn phế quản có thể do mắc phải hoặc do bẩm sinh. Hầu hết các trường hợp giãn phế quản là do mắc phải (90%) bởi đã mắc một bệnh nào đó về đường hô hấp (mũi họng, phế quản, thanh quản, xoang). Căn nguyên gây viêm hô hấp là do vi sinh vật (vi khuẩn, virut, vi nấm), đặc biệt là vi khuẩn lao. Chúng gây viêm nhiễm, xuất tiết, ứ đọng các chất dịch, đồng thời kích thích gây ho làm tăng áp lực trong lòng phế quản, càng ho nhiều và ho kéo dài (ho mạn tính) càng làm cho phế quản bị giãn, khó hồi phục.

Một số nguyên nhân khác gây giãn phế quản là do chít hẹp phế quản kéo dài như polyp phế quản hoặc hạch lao gây chèn ép phế quản lâu ngày sẽ làm tăng áp lực phế quản gây giãn. Ngoài ra, nhiễm độc hóa chất do hít phải bởi nghề nghiệp (công nhân ở các nhà máy hóa chất, người làm công tác trong phòng thí nghiệm… mà bảo hộ lao động kém), người thường xuyên hít phải khói, bụi hoặc nghiện thuốc lá, thuốc lào là các điều kiện thuận lợi làm giãn phế quản.

Giãn phế quản bẩm sinh chỉ chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 10%), gặp chủ yếu ở tuổi còn trẻ, có hiện tượng “phổi đa nang” và có thể có các dị tật bẩm sinh khác kèm theo.

Hình ảnh phế quản bình thường và phế quản bị giãn.

Hình ảnh phế quản bình thường và phế quản bị giãn.

Triệu chứng của giãn phế quản

Có thể bị sốt cao trên 38oC trong giai đoạn có nhiều chất nhày và mủ ứ đọng trong phế quản. Kèm theo sốt là ho, khạc nhiều đờm, mủ. Ho thành từng cơn vào lúc nửa đêm, sáng sớm vừa ngủ dậy. Thời tiết chuyển lạnh người bệnh ho càng nhiều. Càng ho nhiều càng khạc ra nhiều đờm, mủ, chất dịch nhày. Khi khạc mủ ra bô, chậu sẽ thấy dịch lẫn với đờm, có 3 lớp khá rõ: lớp trên là bọt, lớp giữa là chất nhầy và lớp dưới cùng là mủ đặc quánh. Đặc biệt là mùi của dịch đờm, mủ rất hôi. Một số trường hợp đờm, mủ có lẫn ít máu, do các mao mạch ở thành phế quản chịu áp lực mạnh khi người bệnh ho, khạc làm cho niêm mạc của phế quản bị tổn thương. Mệt mỏi, chán ăn, nhất là người có tuổi cao, sức yếu. Bệnh càng nặng, đờm và mủ càng nhiều. Bên cạnh đó thường có tức ngực, khó thở (tức ngực nhiều hơn khó thở).

Để chẩn đoán giãn phế quản có thể chụp Xquang phổi, chụp phế quản có cản quang, nội soi phế quản hoặc đo khí máu, do chức năng hô hấp, siêu âm màng phổi…

Nguyên tắc điều trị

Khi bị viêm đường hô hấp trên cần được điều trị dứt điểm không để bệnh kéo dài hoặc mạn tính có thể dẫn đến viêm đường hô hấp dưới và gây giãn phế quản. Khi đã được chẩn đoán giãn phế quản cần tích cực điều trị theo đơn thuốc của bác sĩ để bệnh chóng khỏi, tránh để bệnh kéo dài có thể gây biến chứng nguy hiểm. Người bệnh không nên tự chẩn đoán bệnh cho mình và tự mua thuốc chữa trị nếu không phải là bác sĩ.

Lời khuyên của thầy thuốc

Phòng bệnh giãn phế quản cần vệ sinh đường hô hấp trên (họng, hầu, răng, họng, miệng…) hàng ngày để đề phòng viêm amidan, viêm họng, mũi, xoang, viêm chân răng, viêm lợi bằng hình thức đánh răng sau khi ăn, trước, sau khi ngủ dậy và súc họng bằng nước muối nhạt.

Cần nâng cao thể trạng, đặc biệt là trẻ em bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý.

Cần tập thể dục đều đặn, đúng bài bản, nên tập thể dục buổi sáng (nếu trời rét đậm thì tập ở trong nhà), tập hít thở sâu.

Mùa lạnh cần giữ ấm cơ thể, vùng cổ, nhất là khi ra khỏi nhà bằng cách mặc ấm, có khăn quàng cổ, đội mũ len, đeo khẩu trang. Nên tắm, rửa bằng nước ấm ở trong buồng tắm kín gió. Tắm xong lau khô người và mặc quần áo ngay tránh cảm lạnh, nhất là trẻ em và người cao tuổi.

Biến chứng của bệnh giãn phế quảnKhi bệnh kéo dài, lồng ngực có thể biến dạng, móng tay hình mặt đồng hồ (hình vòm) hoặc phía cuối của đốt cuối ngón tay có hiện tượng to ra (ngón tay dùi trống) là do giãn phế quản gây nên thiếu dưỡng khí kéo dài. Bệnh giãn phế quản có thể dẫn đến nhiễm khuẩn phế quản - phổi, gây mủ phế quản, áp xe phổi, mủ màng phổi, xơ hóa phổi, khí phế thũng, gây suy hô hấp trầm trọng. Nếu không được chữa trị bệnh càng ngày càng nặng và suy hô hấp, tử vong. Ngoài ra, bệnh khí phế thũng có thể gây ảnh hưởng đến chức năng của tim và nguy hiểm hơn là gây nên suy tim từ đó gây nên suy hô hấp, suy tim.

BS. Việt Anh

Lợi ích bất ngờ từ “chuyện ấy” với người luống tuổi

Càng chăm thực hành sex, trí tuệ càng minh mẫn

Các nhà khoa học Trung tâm Sức khỏe tâm lý ở Ultrecht, Hà Lan nghiên cứu 1,7 nghìn tình nguyện viên (TNV) thuộc nhóm tuổi từ 58 đến 98. Các TNV cao tuổi thực hiện hàng loạt trắc nghiệm khó, để xác định năng lực nhận biết và trí nhớ, 2 tố chất thường suy giảm ở tuổi già. Kết quả đã khiến cả tập thể nghiên cứu ngạc nhiên: Các cụ cao tuổi càng chăm thực hành sex, trí tuệ càng minh mẫn!

Điều đó có nghĩa, hoạt động tình dục tích cực duy trì đến tuổi già phát huy tác dụng trẻ hóa não bộ.

“Chuyện ấy” mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho cả hai giới.

“Chuyện ấy” mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho cả hai giới.

Tạo tế bào thần kinh

Trong thời gian nghiên cứu hoạt động của não những cá thể chuột thí nghiệm thực hiện hành vi giao cấu, các nhà khoa học thuộc Đại học Maryland (Mỹ) đã phát hiện, sex kích hoạt sự tạo ra tế bào thần kinh. Ngay nửa giờ thực hành “chuyện ấy” đã đủ, để những tế bào thần kinh mới xuất hiện tại vùng hải mã, khu vực hết sức quan trọng của não, nơi chịu trách nhiệm về ghi chép ký ức vào bộ nhớ dài hạn. Với những cá thể chuột lứa tuổi “trung niên”, sex còn cải thiện năng lực nhận biết, giống như não của chúng được bổ sung liều năng lượng mới.

Các chuyên gia thần kinh (Đại học Konkuk, Hàn Quốc) đã tìm ra đáp án trả lời câu hỏi, tại sao sex mang lại hiệu ứng tích cực cho não bộ. Họ đã phát hiện, trong thời gian thực hành sex, nồng độ hormon stress độc hại đối với não bộ giảm thiểu đáng kể, nhờ thế các tế bào thần kinh mới có thể dễ dàng xuất hiện. Các hormon stress hết sức độc hại đối với não, dẫn đến sự hoại tử nhanh tế bào thần kinh, nhất là ở vùng hải mã. Chính vì thế, những người chịu tác động mạnh của stress thường gặp vấn đề với trí nhớ - GS. Jerzy Vetulani thuộc Viện Dược học, Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan (PAN) cho biết.

Khỏe tim

Sex lành mạnh có thể cải thiện chức năng tim. Các nhà khoa học thuộc Viện New England Research ở Massachusetts (Mỹ) đã chỉ ra rằng, xác suất bị tai biến não hoặc nhồi máu cơ tim của đàn ông sau tuổi 40 không sex hoặc chỉ thi thoảng thực hành sex, cao hơn bình thường tới 2 lần. Phát hiện này được đưa ra sau khi các nhà khoa học phân tích tình trạng sức khỏe trên 1.000 tình nguyện viên trong thời gian 16 năm. Những người đã bị bệnh tim (từng trải qua nhồi máu cơ tim hoặc có nguy cơ cao) cũng không nên từ bỏ “chuyện ấy” - các bác sĩ tim mạch nhấn mạnh. Lợi ích từ sinh hoạt tình dục tích cực lớn hơn so với mối đe dọa rủi ro, các chuyên gia khẳng định trong tuyên bố chính thức của Hiệp hội Tim mạch Mỹ.

Tăng khả năng đề kháng

Sex còn làm tăng khả năng đề kháng của cơ thể, nhất là trong mùa cúm - cảm lạnh. Quan hệ tình dục 1 hoặc 2 lần/tuần kích thích hệ miễn dịch tăng sản xuất lymphocyte (tế bào bạch huyết), đội quân bảo vệ cơ thể trước vi trùng và virut - TS. Jerzy Depko, chuyên gia tình dục, Chủ tịch Hiệp hội Y học tình dục Ba Lan cho biết. Khi ấy đặc biệt gia tăng nồng độ immunoglobin A, thành phần đảm trách phản ứng nhanh của cơ thể chống lại bệnh lây nhiễm. Những người thường xuyên thực hành sex có nồng độ cao immunoglobulin A trong máu rất ít bị nhiễm bệnh, thí dụ cúm hoặc cảm lạnh so với đối tượng có nồng độ immunoglobulin A thấp.

Ngừa ung thư

Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Ung thư Quốc gia Mỹ cho biết, sex sẽ mang lại cảm giác thú vị nhất đồng thời lợi ích sức khỏe tối đa khi có kết thúc cực khoái. Sự phóng tinh - biểu hiện cực khoái của nam giới là một trong những nhân tố quan trọng nhất phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt.

Nghiên cứu trên 30 nghìn đàn ông thuộc nhóm tuổi 46-81. Sau khi quan sát, các nhà khoa học cho biết, tỷ lệ những người đàn ông có cực khoái (phóng tinh) tối thiểu 21 lần/tháng bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn hẳn đồng loại đối chứng.

Với phụ nữ, sinh hoạt thầm kín cũng mang lại hiệu ứng phòng bệnh hiệu quả. Khoa học đã chứng minh, thường xuyên, đều đặn thụ hưởng cực khoái là giải pháp hiệu quả giúp người đẹp ngăn ngừa nguy cơ viêm cổ tử cung và các bệnh lây nhiễm đường tiết niệu.

Ngọc Báu

((Theo Seks, czyli najzdrowsza przyjemność świata))

Phòng bệnh van hai lá do thấp

Theo thống kê của Viện Tim mạch Quốc gia, trong những năm gần đây có tới 50% tổng số bệnh nhân nhập viện là các bệnh van tim do thấp và chiếm đến hơn 90% trong số các bệnh tim mắc phải, trong đó chủ yếu là bệnh van hai lá.

Các tổn thương chính trong bệnh van hai lá do thấp

Van hai lá nằm giữa tâm nhĩ và tâm thất trái. Thương tổn van hai lá do thấp tim rất phức tạp và nặng nề. Có 3 loại tổn thương chính là hẹp van, hở van và kết hợp vừa hở vừa hẹp van.

Nguyên nhân chính làm cho van hai lá bị hỏng là do thấp tim không được điều trị triệt để, dẫn đến tổn thương van tim, khiến cho các lá van dày lên, có thể lắng đọng canxi làm lá van cứng lại, hạn chế di động. Các mép van dính lại với nhau gây hẹp lỗ van, các dây chằng dày dính lại với nhau thành một khối khiến van bị hở.

Van hai lá tổn thương do thấp.

Van hai lá tổn thương do thấp.

Dấu hiệu ban đầu của bệnh

Khó thở là dấu hiệu rất phổ biến của bệnh. Người bệnh ban đầu thấy khó thở khi làm việc nặng hoặc khi gắng sức như lên cầu thang, sau đó mức độ khó thở sẽ tăng dần, chỉ cần làm việc nhẹ như sinh hoạt hàng ngày người bệnh đã thấy khó thở và sẽ đỡ khi nghỉ ngơi. Nếu bệnh không được điều trị, mức độ khó thở sẽ tăng hơn nữa khiến người bệnh khó thở cả khi nghỉ không làm gì, ban đêm thường phải ngồi dậy để thở.

Bên cạnh dấu hiệu khó thở, đôi khi bệnh nhân có ho ra máu, có thể chỉ ho ra ít máu. Dấu hiệu này dễ khiến bệnh nhân cũng như thầy thuốc nhầm với bệnh lý của phổi hay đường hô hấp, chỉ khi kiểm tra về tim mới phát hiện ra bệnh.

Rất nhiều bệnh nhân có những biểu hiện trên, nhưng do điều kiện khó khăn hoặc chủ quan không đến khám, khiến mức độ bệnh nặng dần lên. Vì thế đa số người bệnh đến khám khi bệnh ở giai đoạn nặng.

Chẩn đoán bệnh không khó

Bác sĩ chuyên khoa sẽ khám tim, nghe được tiếng thổi bất thường ở vùng tim có thể hướng tới bệnh tim là hẹp hay hở van. Tuy nhiên, để chẩn đoán chính xác cần làm thêm các xét nghiệm chụp phim Xquang, điện tim đồ và đặc biệt là siêu âm tim.

Ngày nay, với siêu âm tim giúp thầy thuốc có thể đánh giá chính xác mức độ hẹp hay hở van. Bên cạnh đó đánh giá được hình thái tổn thương của van, mức độ dày, vôi hóa, cũng như tình trạng dây chằng của van hai lá.

Điều trị thế nào?

Sau khi đánh giá thương tổn van hai lá và các tổn thương phối hợp nếu có ở các van tim khác (như van ba lá, van động mạch chủ), đánh giá chức năng tim, mức độ suy tim, bác sĩ chuyên khoa sẽ có phương án can thiệp phù hợp kết hợp với điều trị nội khoa (điều trị bằng thuốc) trước và sau khi can thiệp. Việc điều trị chống suy tim chủ yếu bằng chế độ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, dùng thuốc chống suy tim và lợi tiểu.

Với tổn thương hẹp van hai lá đơn thuần:

Khi van hai lá chỉ hẹp mà không có hở, có thể mổ nong van bằng dụng cụ hoặc hiện nay phổ biến mổ với tuần hoàn ngoài cơ thể, cho tim ngừng đập, mở nhĩ trái và mở rộng van hai lá. Với phương pháp này kết quả thường tốt, nhưng với chi phí cho phẫu thuật còn rất cao nên đôi khi vẫn phải lựa chọn mổ nong van bằng dụng cụ, với chi phí phẫu thuật thấp hơn, tuy nhiên kết quả hạn chế hơn.

Có một phương pháp khác là nong van bằng can thiệp mạch qua da. Bác sĩ chuyên khoa can thiệp mạch sẽ dùng một ống thông luồn trong lòng mạch máu từ tĩnh mạch đùi ở bẹn, ống thông đi theo tĩnh mạch về tâm nhĩ phải, rồi chọc qua vách liên nhĩ sang nhĩ trái, sau đó đưa qua van hai lá xuống thất trái. Đầu ống thông có quả bóng, khi bơm căng bóng sẽ nong rộng lỗ van. Với phương pháp này, bệnh nhân không phải phẫu thuật, thời gian nằm viện ngắn. Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng khi tình trạng van còn tương đối tốt, chỉ hẹp van đơn thuần hoặc kết hợp hở nhẹ. Nếu bệnh nhân đến muộn, van tổn thương nặng nề thì chỉ có phương pháp duy nhất là phẫu thuật thay van hai lá nhân tạo.

Với tổn thương hở van hai lá hoặc kết hợp hở - hẹp van hai lá:

Trong trường hợp này điều trị duy nhất là phẫu thuật sửa hoặc thay van hai lá với tuần hoàn ngoài cơ thể. Chỉ định sửa hay thay van không chỉ phụ thuộc vào mức độ thương tổn của van mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như tuổi, cơ sở vật chất, kinh tế người bệnh, khả năng kinh nghiệm của thầy thuốc... Tuy nhiên khi lá van dày, vôi hóa nhiều, dây chằng lá van co rút nặng thì phải thay van nhân tạo, nếu lá van còn mềm mại, dây chằng chưa thương tổn nặng thì nên sửa van.

Việc phòng bệnh thấp tim là vô cùng quan trọng bởi vì liên cầu khuẩn có thể khu trú ở đường hô hấp trên hoặc trên da và dễ lây nhiễm. Bệnh hay xảy ra khi người bệnh sống trong môi trường, khí hậu ẩm thấp như hiện nay, hoặc thiếu vệ sinh, điều kiện dinh dưỡng không đảm bảo... Nếu bệnh nhân có các dấu hiệu nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do liên cầu khuẩn tan máu β nhóm A như: sốt, viêm họng, viêm amiđan, sưng hạch bạch huyết dưới hàm, nuốt đau, hoặc phát hiện trẻ có dấu hiệu đau khớp thì cần đưa ngay trẻ đến khám tại các cơ sở y tế.Cần chú ý biện pháp tuyên truyền để người dân biết lợi ích của việc điều trị viêm họng, nhất là cho trẻ cũng như hậu quả tai hại của bệnh van tim do thấp, phổ biến giáo dục sức khỏe cho trẻ giữ vệ sinh, giữ ấm tránh nhiễm lạnh, nâng cao thể chất, cải tạo môi trường sống, nâng cao chất lượng sống, thoát nghèo là một yếu tố rất quan trọng.

BS. Quang Anh

7 hội chứng giấc ngủ nguy hiểm

Hội chứng không ngủ

Hội chứng mất ngủ trong gia đình (tên tiếng anh Fatal Famillial Insomnia - FFI) là căn bệnh phát sinh do một rối loạn gene hiếm gặp và được chẩn đoán phát hiện trong khoảng 40 gia đình trên toàn thế giới. FFI là căn bệnh có diễn biến bí ẩn với những triệu chứng mất ngủ triền miên có thể kéo dài đến vài tháng không rõ nguyên nhân. Người mắc chứng bệnh này thường rơi vào trạng thái trằn trọc không thể ngủ, đầu óc lơ mơ. FFI là căn bệnh khó chẩn đoán bởi các triệu chứng của nó cũng giống như bệnh mất trí nhớ, nghiện rượu và viêm não. Hội chứng này thường xảy ra ở người từ 32 - 62 tuổi và có thể dẫn đến tử vong trong vòng từ 12 - 18 tháng.

Đột tử về đêm

Đột tử về đêm hay còn gọi là hội chứng Brugada là hội chứng rối loạn nhịp tim đe dọa đến tính mạng có thể có tính di truyền. Những người mắc hội chứng này có nguy cơ gia tăng nhịp thất. Nhiều người mắc hội chứng Brugada không có bất cứ triệu chứng nào, do đó không biết gì về tình trạng của mình. Căn bệnh này xuất hiện vào những năm 1980, có tần suất cao ở các nước Đông Nam Á. Người ta phát hiện những người đàn ông trẻ di cư từ các nước Đông Nam Á sang Mỹ bị chết đột ngột trong lúc ngủ nhưng trước đó hoàn toàn khỏe mạnh và không có bệnh tim. Sau đó, ở đầu thập niên 1990, bệnh này được mô tả ở Thái Lan, Philippines, Nhật Bản. Năm 1998, các nhà khoa học thấy rằng đột tử về đêm xảy ra ở khắp nơi trên thế giới có biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng giống nhau, không giới hạn vùng địa lý nào.

7 hội chứng giấc ngủ nguy hiểm7 hội chứng giấc ngủ nguy hiểmTắc nghẽn đường thở - Một trong những rối loạn giấc ngủ nguy hiểm.

Hiện tượng “giật cơ lúc ngủ”

Hay còn gọi là hypnic jerk, xảy ra khi các cơ bắp, đặc biệt là ở chân vô tình co bóp đột ngột. Hiện tượng này gây tranh cãi trong giới khoa học và nhiều giả thuyết được đưa ra. Nhiều người cho rằng sự thức tỉnh bất ngờ cho phép chúng ta kiểm tra môi trường lần cuối - đảm bảo xung quanh thực sự an toàn để chìm vào giấc ngủ - bằng cách tạo ra phản ứng giống như giật mình. Một giả thuyết khác cho rằng hiện tượng này cho phép chủ thể kiểm tra sự ổn định vị trí cơ thể trước khi ngủ, đặc biệt nếu nằm ở nơi không bằng phẳng. Lý thuyết khác cho rằng hiện tượng hypnic jerk chỉ đơn thuần là một triệu chứng nhượng bộ của hệ thống sinh lý giai đoạn đầu của giấc ngủ khi chuyển đổi từ cơ chế thức sang cơ chế ngủ của cơ thể.

Ngưng thở khi ngủ

Đây là một rối loạn giấc ngủ thường gặp, xảy ra khi đường hô hấp liên tục bị tắc nghẽn, hạn chế lượng không khí đến phổi. Những người bị rối loạn này thường ngáy to, đôi khi kèm theo tiếng khịt mũi hoặc tiếng thở như bị nghẹt. Lượng không khí trong phổi ít đi khiến cho não bộ và cơ thể không được cung cấp đủ oxy khiến người bệnh tỉnh dậy trong đêm. Ngưng thở khi ngủ khiến cơ thể mệt mỏi, thiếu tập trung vào ngày hôm sau và dẫn đến một số hậu quả tiêu cực với sức khỏe bao gồm tăng huyết áp, bệnh tim, đột quỵ, tiền đái tháo đường, đái tháo đường và trầm cảm.

Hội chứng người đẹp ngủ

Hội chứng Kleine - Levin (KLS) hay còn gọi là hội chứng người đẹp ngủ là một hiện tượng rối loạn thần kinh về giấc ngủ và ăn uống. Mắc chứng bệnh này, người bệnh thường ngủ li bì cả ngày lẫn đêm, chỉ thức dậy để ăn uống và vệ sinh. Họ thường trải qua các trạng thái mộng du, thiếu cảm xúc như người bị bệnh trầm cảm. Người bệnh thường không có khả năng chăm sóc mình, họ nằm lì trên giường, tỏ ra kín đáo và mệt mỏi kể cả lúc tỉnh táo. Theo các chuyên gia, hội chứng này thường phát bệnh trong thời thanh thiếu niên là 1%, khoảng 70% người bệnh là nam giới. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể do khuynh hướng di truyền hoặc là kết quả của một rối loạn tự miễn dịch dẫn đến chứng bệnh này. Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị hiệu quả nhưng căn bệnh này sẽ tự khỏi sau 8 - 12 năm.

Rối loạn hành vi chu kỳ giấc ngủ

Rối loạn hành vi chu kỳ giấc ngủ liên quan đến hành động hoặc hành vi bất thường trong giai đoạn ngủ mắt cử động nhanh (REM). Giấc ngủ REM là một giai đoạn của chu kỳ ngủ, thường xảy ra từ 1,5 - 2 giờ trong một giấc ngủ bình thường. Các nhà nghiên cứu chia giấc ngủ thành 2 giai đoạn NREM (non rapid eye movement) và REM (rapid eye movement). Trong giai đoạn REM của giấc ngủ, cơ thể tạm thời ở trạng thái liệt cơ, ở những người mắc rối loạn hành vi giấc ngủ REM, những tê liệt này không đầy đủ hoặc không có, vì vậy người đó thực hiện những giấc mơ của họ bằng các hành động bạo lực, kịch tính. Người mắc bệnh này thường la hét, nghiến răng, có những hành động bạo lực như đấm đá trong giấc ngủ REM. Bệnh thường gặp ở nam giới trên 50 tuổi, rất hiếm thấy ở phụ nữ và trẻ em.

Hội chứng nghiến răng lúc ngủ

Hội chứng nghiến răng lúc ngủ có tên tiếng Anh là bruxism là bệnh nhai hay nghiến răng vào ban đêm lúc ngủ hay ban ngày. Phụ nữ thường bị chứng bruxism nhiều hơn vào ban ngày. Hàm răng của những người mắc chứng bruxism thường bị mòn hoặc có vết nứt, gãy ở chân. Người bệnh nặng có thể bị nhức đầu, đau tai, đau các cơ bắp, hàm vì các cơ này phụ trách cử động xuống hàm dưới phải hoạt động quá nhiều, một phần do khớp hàm - thái dương bị tổn thương. Nghiến răng lúc ngủ được xem là một rối loạn cử động liên hệ tới gấc ngủ. Bruxism thường đi kèm với các rối loạn khác của giấc ngủ như ngủ ngáy, ngưng thở khi ngủ.

Minh Huệ

((Theo listverse ))

Hậu quả của viêm đại tràng mạn tính

Nguyên nhân

Hầu hết viêm đại tràng mạn tính xuất phát từ viêm đại tràng cấp do điều trị không dứt điểm hoặc tự mua thuốc điều trị dẫn đến viêm đại tràng mạn. Đại đa số bệnh viêm đại tràng mạn tính là do nhiễm ký sinh trùng lỵ amíp (Entamoeba histolitica), Giardia, Candida hoặc vi khuẩn lỵ trực khuẩn (Shigella), E.coli, Clostridium difficile (gây viêm đại tràng màng giả), Salmonella, vi khuẩn lao (M. tuberculosis) hoặc virút Herpes hoặc do polyp đại tràng… Khi mắc bệnh kiết lỵ cấp nếu không phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ, ký sinh trùng amíp sẽ tạo thành kén ở ngay dưới niêm mạc đại tràng và trở thành viêm đại tràng mạn tính.

viêm đại tràng mạn tính

Viêm đại tràng mạn tính do lao có thể gặp ở một số trường hợp đang bị lao phổi hoặc thứ phát sau khi bị lao phổi (50% số bệnh nhân lao ruột có hình ảnh lao phổi khi chụp X-quang phổi). Các loại nhiễm trùng khác do vi khuẩn Shigella, Salmonella, vi nấm, virút có thể tổn thương chủ yếu ban đầu ở các bộ phân khác của đường ruột (ruột non) nhưng nếu không điều trị tích cực, vẫn có thể gây nên viêm đại tràng cấp, dẫn đến viêm đại tràng mạn tính.

Không ăn rau sống, không uống chưa đun sôi, không ăn thịt chưa nấu chín

Viêm đại tràng mạn tính còn có thể do dị ứng, nhất là dị ứng thức với ăn hoặc viêm đại tràng tự miễn hoặc do dùng thuốc kháng sinh kéo dài gây loạn khuẩn ruột. Viêm đại tràng do nguyên nhân tự miễn thường biểu hiện viêm, loét không đặc hiệu giống như viêm đại tràng do amip hoặc Shigella hoặc Salmonella. Một số trường hợp viêm đại tràng mạn tính còn có thể do rối loạn hệ thần kinh thực vật. Ngoài ra, có thể do ngộ độc hóa dược dùng điều trị một bệnh khác như thyroxin (điều trị bướu cổ) hoặc do urê máu tăng cao liên tục trong một thời gian dài hoặc do xạ trị vùng chậu.

Triệu chứng

Đau bụng là triệu chứng hay gặp nhất. Đau âm ỉ ở phần dưới rốn (bụng dưới, hạ vị), có thể đau bụng dọc theo khung đại tràng (hố chậu phải có đại tràng lên, trên rốn có đại tràng ngang và hố chậu trái có đại tràng xuống). Sau khi ăn, đau bụng dễ xuất hiện, đôi khi đau, buồn đi ngoài, sau khi đại tiện, hết đau. Viêm đại tràng mạn, bụng nhiều hơi, đau, vì vậy, trung tiện nhiều và sau khi trung tiện, bụng đỡ đau hơn. Nhiều trường hợp, ban đêm đau bụng nhiều hơn, nhất là lạnh. Kèm theo đau bụng, trung tiện nhiều là rối loạn tiêu hóa (miệng đắng, chán ăn, ăn không tiêu kéo dài), phân nát, không thành khuôn, đi đại tiện nhiều lần (4 - 5 lần trong một ngày đêm), tuy vậy, đôi khi phân lại rắn gây táo bón. Bụng hơi trướng (nhiều hơi nên trung tiện nhiều), cảm giác căng tức, khó chịu.

Để chẩn đoán viêm đại tràng mạn tính, ngoài chụp đại tràng có thuốc cản quang (sau khi đã thụt tháo), nội soi và sinh thiết để xác định nguyên nhân là rất cần thiết. Với bệnh viêm đại tràng mạn tính nghi do vi khuẩn lao cần phải xét nghiêm phân hoặc mảnh sinh thiết để tìm vi khuẩn lao bằng kỹ thuật nhuộm Zin - Nenxen hoặc xác định vi khuẩn lao thông qua phản ứng sinh học phân tử khuếch đại gen PCR (Polymerase Chain Reaction). Viêm đại tràng mạn tính do loạn khuẩn, cần xét nghiệm phân để đánh giá hệ vi khuẩn chí đường ruột. Ngoài ra, có thể xác định nấm, lỵ amíp và tìm hồng cầu, bạch cầu.

viêm đại tràng mạn tínhNội soi và sinh thiết để xác định nguyên nhân là rất cần thiết

Hậu quả

Hậu quả của viêm đại tràng mạn tính là dễ tái phát, rối loạn tiêu hóa kéo dài dẫn đến rối loạn hấp thu dẫn tới gầy yếu, ăn kém làm suy kiệt.và đưa đến tử vong. Ngoài ra, bệnh có thể có biến chứng gây thủng ruột (lỵ amíp) hoặc phình đại tràng hoặc ung thư hóa, nhất là trong các trường hợp có nhiếu polyp đại tràng, kích thước lớn.

Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh

Để điều trị viêm đại tràng mạn tính có hiệu quả tốt nhất là xác định được nguyên nhân, trên cơ sở đó sẽ dựa vào phác đồ để điều trị có hiệu quả (điều trị nội khoa), nếu do polyp sẽ điều trị ngoại khoa (cắt bỏ).

Để không mắc bệnh viêm đại tràng mạn tính, trước tiên không để mắc bệnh viêm đường ruột, nhất là viêm ruột cấp tính. Dó đó cần đảm báo vệ sinh an toàn thực phẩm thật tốt. Không ăn rau sống, không uống chưa đun sôi, không ăn thịt chưa nấu chín (tiết canh hoặc nem chua, nem chạo), không uống sữa bò tươi chưa tiệt trùng, tránh dùng kháng sinh kéo dài, điều trị tích cực khi bị lao phổi. Năng vận động cơ thể.

Lời khuyên của thầy thuốcKhi bị viêm đại tràng mạn tính cần quan tâm đến chế độ ăn. Hàng ngày nên ăn nhiều rau, trái cây, chất xơ. Khi bị tiêu chảy cần tránh hẳn chất xơ dạng không tan như cellulose để thành ruột khỏi bị “cọ xát”. Có thể ăn trái cây xay nhừ như: chuối, táo, dưa hấu…Hạn chế đến mức tối đa ăn chua cay. Cần hạn chế sử dụng các sản phẩm từ sữa, bởi vì, trong sữa có loại đường lactose rất khó tiêu, ngoài ra, chất đạm của sữa có thể gây dị ứng cho bệnh nhân. Vì vậy, nên thay thế bằng sữa đậu nành. Tránh những thức ăn có hàm lượng dầu mỡ quá cao như các món rán, xào, sốt và cần tránh các thuốc kháng viêm, giảm đau không steroid (aspirin, Ibuprofen, Naprosyn, Voltaren, Feldene) vì có thể chúng sẽ “ăn mòn” niêm mạc dạ dày, ruột, làm tăng nguy cơ xuất huyết.

PGS.TS.BS. BÙI KHẮC HẬU

Cắt amidan có giúp giảm đau họng?

Nguyễn Thị Minh Đức(minhduc@yahoo.com)

Amidan là tổ chức lympho ở vùng hầu họng, nằm ở hai bên lưỡi gà. Viêm amidan và viêm họng là bệnh thường gặp, đôi khi song hành nhưng cũng có khi độc lập. Viêm họng là do nhiễm khuẩn bởi các loại vi khuẩn thường gặp như: liên cầu, tụ cầu, nấm… không liên quan đến tuyến amidan. Nhiều người bị viêm họng thường sưng amidan. Nhưng không phải hễ viêm họng là sưng amidan. Chẳng hạn các trường hợp viêm họng mà không có sưng amidan như: viêm họng do cảm lạnh, do dị ứng với thời tiết, viêm họng trong bệnh cúm. Nên dù có cắt amidan hay không thì bệnh viêm họng vẫn có thể xảy ra. Tuy nhiên, theo nghiên cứu thì việc cắt amidan có giảm tái phát viêm họng và mức độ viêm họng nặng cũng giảm nhưng không hết hẳn. Trên lâm sàng có thể viêm amidan cấp, viêm mạn và viêm hốc mủ, áp-xe amidan... Khi bị viêm amidan người bệnh thường bị sốt cao 39-40oC, đau họng, khó nuốt, hôi miệng… Việc điều trị bao gồm thuốc giảm đau, chống viêm và kháng sinh, kết hợp súc miệng nước sát khuẩn họng. Nếu điều trị nội khoa không kết quả hoặc gây áp-xe amidan thì cần can thiệp phẫu thuật. Tuy nhiên không phải cứ thấy viêm là cắt mà người ta cắt amidan trong các trường hợp: bị viêm amidan nhiều lần hay tái phát, amidan quá to ảnh hưởng đến thở và nuốt, amidan là ổ nhiễm khuẩn. Trường hợp của bạn nếu có chỉ định cắt không thể trì hoãn thì bạn nên tuân thủ chỉ định của bác sĩ, còn không thì tốt nhất bạn nên dùng thuốc theo đơn. Tuy nhiên, nếu đã dùng kháng sinh hơn một tuần không đỡ bạn nên khám lại, vì có thể vi khuẩn nhờn kháng sinh. Tốt nhất, bạn nên đi khám chuyên khoa tai - mũi - họng.

BS. Hoàng Văn Thái

Ngồi lâu một chỗ có tác hại gì cho sức khỏe?

Ngồi lâu một chỗ kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng chủ yếu do nghề nghiệp (công tác văn phòng, sửa chữa đồ điện tử lái xe đường dài, lái xe tắc xi, lái tàu hỏa…) hoặc do tàn tật không đi lại được hoặc đi đứng hạn chế hoặc do tuổi cao sức yếu, tai biến… không có người chăm sóc, hỗ trợ...

Tác hại đến sức khỏe

Một nghiên cứu mới đây của Australia cho thấy, những người ngồi trên 6 giờ một ngày, khả năng chết sớm trong vòng 15 năm tăng lên 40% so với những người chỉ ngồi 3 tiếng cho dù có tập thể dục, thể thao, chế độ ăn uống tốt. Nhiều người do áp lực công việc nên phải ngồi ở bàn làm việc cả ngày (từ 8 - 10 tiếng đồng hồ/ngày), tuy nhiên không phải ai cũng biết thói quen này lại là nguyên nhân khiến sức khỏe, trí tuệ giảm sút với rất nhiều chứng bệnh khác nhau. Các nhà nghiên cứu tổng kết thấy, không cần biết giới tính, cân nặng hay độ tuổi của họ là bao nhiêu, nguy cơ tử vong của những người có thói quen ngồi lâu một chỗluôn luôn cao hơn những người khác không ngồi lâu một chỗ.

Ngồi lâu một chỗ có tác hại gì cho sức khỏe?Trọng lực của cơ thể tác động nhiều giờ, nhiều ngày vào cột sống thắt lưng gây đau, mỏi thắt lưng

Trong cuộc sống thường ngày, một số người do ngồi lâu, cơ thể thiếu vận động, sẽ khiến nhu động ruột, dạ dày ngày một yếu đi, dịch tiêu hóa bài tiết cũng giảm dẫn đến tình trạng rối loạn tiêu hóa (biếng ăn, ăn uống kém ngon, hay bị chứng đầu hơi, chướng bụng, khó tiêu) và hệ tiêu hóa hoạt động kém hiệu quả, nguồn dinh dưỡng được cung cấp cho cơ thể hạn chế làm cho sức khỏe ngày càng suy yếu. Nếu người cao tuổi ngồi lâu một chỗ sẽ rất dễ bị suy dinh dưỡng, với người đang trong độ tuổi lao động sẽ giảm sút năng suất lao động. Đi kèm với các tác hại đó, ngồi lâu một chỗ dần dần làm tổn thương vùng đầu, cổ, cột sống, trong đó thể hiện rõ nhất là cột sống cổ, cột sống thắt lưng. Biểu hiện của thoái hóa cột sống cổ làm cho người bệnh rất khó chịu do đau cổ, mỏi cổ, cổ không linh hoạt (quay đầu, xoay người từ hạn chế đến khó khăn), đau vai, thần kinh vai gáy, chuột rút cơ gáy, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt do thoái hóa cột sống cổ gây rối loạn tuần hoàn não (hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, buồn nôn, nôn, đi đứng loạng choạng…). Ngồi lâu một chỗ, trọng lực của cơ thể tác động nhiều giờ, nhiều ngày vào cột sống thắt lưng gây đau, mỏi thắt lưng. Từ đó góp phần vào làm thoái hóa sụn đệm cột sống gây chèn ép rễ dây thần kinh, tủy sống hoặc động mạch cột sống… dẫn đến thoát vị đĩa đệm, đau dây thần kinh tọa nếu không được chữa trị có thể gây biến chứng teo cơ đùi, cẳng chân, thậm chí tàn phế. Thêm vào đó, nếu ngồi liên tục trong 3 - 4 tiếng đồng hồ trở lên, ít vận động, quá trình lưu thông máu trong cơ thể sẽ bị ảnh hưởng và khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là vùng chậu và vùng chi dưới làm tê mỏi, hạn chế vận động. Ngồi lâu một chỗ, ít vận động chính là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng thừa cân, béo phì, đặc biệt là nguy cơ tăng kích cỡ vòng 2 đối với chị em phụ nữ.

Các nhà nghiên cứu cho biết rằng, khi ngồi lâu một chỗ, cơ bắp đốt cháy ít chất béo và tuần hoàn hoạt động chậm hơn cho nên máu lưu thông đến các cơ quan chậm hơn. Vì vậy, các axít béo dễ dàng làm tắc nghẽn các động mạch nhỏ dẫn đến bệnh tim mạch (thiếu máu mạch vành, thiếu máu đi lên não), có thể dẫn đến đột quỵ. Một số trường hợp, ngồi lâu một chỗ, ngoài việc àm ảnh hưởng xấu đến hệ tiêu hóa, cột sống hoặc lưu thông máu kém còn gây nên tình trạng bài tiết của thận bị suy giảm do lượng máu đến thận ít hơn hoặc ngồi lâu làm ứ đọng nước tiểu dễ gây nên viêm thận ngược dòng (ứ mủ, ứ nước bể thận) làm tổn thườn cầu thận gây suy thận. Các tác giả nghiên cứu cũng cho thấy ngồi lâu một chỗ kéo dài khiến các cơ quan trong cơ thể hoạt động kém nhịp nhàng, gây rối loạn sinh học, thần kinh căng thẳng, làm ảnh hưởng xấu đến giấc ngủ (ngủ không sâu, hay tỉnh giấc, ngủ chập chờn, khi tỉnh giấc thường ngủ trở lại rất khó). Ngồi lâu một chỗ, dần dần trở nên sợ hoặc lười vận động từ đó làm cho cơ thể mất đi tính nhanh nhẹn, năng động vốn có gây ra những trì trệ trong công việc và cuộc sống.

Với phụ nữ đang mang bầu, nếu chỉ ngồi lâu một chỗ nhiều giờ trong một ngày, nhiều tháng liên tục sẽ làm cho máu lưu thông kém gây phù chân (chưa kể một số chị em đang mang bầu do chèn ép của thai nhi gây phù chân), khung chậu không được vận động thường xuyên, khi chuyển dạ sẽ có thể gặp khó khăn.

Nên làm gì?

Theo một nghiên cứu cho thấy khi giảm thời gian ngồi, xuống dưới 3 tiếng đồng hồ một ngày, tuổi thọ có khả năng sẽ tăng lên đến 2 năm và ngược lại. Vì vậy, mọi người, nhất là những người có nghề nghiệp đặc thù phải ngồ lâu (công tác văn phòng, đọc tài liệu nghiên cứu, viết văn viết báo, đánh máy…) cần hạn chế đến mức tối đa ngồi lâu một chỗ. Vì vậy, cứ vài ba tiếng đồng hồ nên đứng dậy đi lại khoảng từ năm, mười phút hoặc cử động tay chân, thân thể như đang tập thể dục buổi sáng. Nếu lái xe, lái tàu, lái tắcxi… vài ba tiếng đồng hồ nên nghỉ giải lao, đi lại, vươn vai, cúi xuống, ngẩng đầu lên, xoay mình khoảng chừng mười phút để máu được lưu thông. Không nên nhịn tiểu, ngồi lâu một chỗ, bởi vì, nhịn tiểu càng dễ làm ảnh hưởng xấu đến chức năng bài tiết nước tiểu và giải phóng nước tiểu, từ đó ảnh hưởng xấu đến thận, vì vậy, cứ khoảng vài tiếng nên chủ động đi tiểu một lần.

Người cao tuổi, sức yếu, đi lại khó khăn cứ vài ba tiếng đồng hồ nên dùng nạng, gây hoặc vịn vào giường, bờ tường hoặc có người hỗ trợ nên đi lại năm, ba phút đồng hồ hoặc người có tuổi, sức yếu nên đi lại chầm chậm trong nhà, trong sân một ngày vài ba lần.

BS. VIỆT THANH

“Liệu pháp” dinh dưỡng trị sỏi tiết niệu tái phát

Tình trạng tái phát của sỏi tiết niệu đặt ra câu hỏi về quá trình hình thành sỏi. Đây là hậu quả của sự mất cân bằng, cần phải có thời gian để tạo lại tình trạng ổn định nhằm loại bỏ nguyên nhân gây. Để tránh sỏi tiết niệu tái phát, người bệnh cần có những kiến thức phòng ngừa bệnh mà chế độ ăn uống là một yếu tố rất quan trọng.

Những nguyên tắc cơ bản về dinh dưỡng để tránh sỏi tái phát

Cần được áp dụng trước khi quá trình tạo sỏi xảy ra nhằm tránh sự tái phát của sỏi dựa trên sự hiểu biết về cơ chế tạo sỏi của từng bệnh nhân, bao gồm: tăng bài tiết nước tiểu; sử dụng thực phẩm đa dạng và cân bằng; những lời khuyên về thực phẩm.

Đồ uống thích hợp để tăng bài niệu và cung cấp canxi

Bệnh nhân cần uống nhiều nước. Mục đích để đạt được trên 2,5 lít nước tiểu ổn định trong toàn bộ thời gian mỗi ngày với tỷ trọng nước tiểu vào buổi sáng đạt khoảng 1010. Việc tăng số lượng nước tiểu nhằm mục đích hòa loãng nước tiểu trong thời gian cả ngày và đêm để giảm nồng độ các chất tạo sỏi trong nước tiểu.

Số lượng nước uống mỗi ngày tùy theo thời tiết, các hoạt động cá nhân, trọng lượng cơ thể; chia đều lượng nước uống trong cả ngày và đêm; đa dạng các loại nước uống: nước uống thông thường, nước có ga, tránh đồ uống có đường hoặc muối. Trên thực tế, nhiều bệnh nhân dễ bị sỏi tái phát do không áp dụng đúng việc uống nước đủ và đều. Cần uống đủ và nhất là phân chia lượng nước uống đều trong cả ngày lẫn đêm để giảm độ cô đặc của nước tiểu, nhất là về buổi sáng. Một số kinh nghiệm nhỏ rất hữu ích đó là thường xuyên đem theo những chai nước nhỏ khi ra khỏi nhà, uống nước trước và sau khi đi tiểu, uống trước khi ngủ và ngay khi tỉnh dậy...

Cung cấp canxi phù hợp: Ngoài tác dụng hòa loãng nước tiểu, đồ uống còn là nguồn cung cấp các chất khoáng. Cần biết rõ thành phần chất khoáng có trong đồ uống để tránh đưa vào cơ thể quá nhiều canxi, phospho, magne...

Sử dụng thức ăn đa dạng và cân bằng

Các loại thức ăn khác nhau cần được phân đều trong nhiều bữa ăn trong ngày nhằm bảo đảm dinh dưỡng mà không gây tăng đậm độ nước tiểu quá cao.

Những sai lầm thường gặp về dinh dưỡng:

Về nhu cầu: Những bệnh nhân bị sỏi tái phát thường có thói quen xấu là ăn quá nhiều muối và đạm trong khi đó lại thiếu rau và nước.

Về phân bố các bữa ăn: Sỏi tái phát thường gặp ở những người chỉ dùng 1 bữa chính trong ngày, chủ yếu là bữa tối. Bữa sáng thường ít, bữa trưa chủ yếu là thức ăn nhanh trong khi đó bữa tối lại quá nhiều chất bổ , đặc biệt là đạm và chất khoáng.

Phân phối các bữa ăn hợp lý:

Việc phân bố các bữa ăn trong ngày rất quan trọng nhằm cung cấp dinh dưỡng và giữ đậm độ nước tiểu hợp lý. Cần có ít nhất 3 bữa trong ngày thay đổi với sự cân đối các loại thức ăn cần thiết sau: sữa và các sản phẩm của sữa; thịt, cá, trứng; tinh bột; rau xanh; hoa quả.; chất béo.

Chế độ ăn đa dạng có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa sỏi niệu tái phát.

Lời khuyên về dinh dưỡng

Sử dụng nhiều loại thực phẩm đa dạng, cân bằng, chia đều phù hợp với từng người. Mỗi bữa ăn phải cung cấp đủ thành phần sau: chất đạm, can-xi, rau, hoa quả, tinh bột, chất béo, vitamin D, muối.

Chất đạm: Thịt, cá, trứng: nên ăn ít (phù hợp theo lượng cơ bắp của từng người) và phải chia đều trong các bữa ăn để tránh cô đặc urê trong nước tiểu. Chỉ nên ăn 1gr chất đạm/1kg cân nặng/ ngày và chia đều trong 3 bữa ăn.

Chất canxi: Sữa và sản phẩm của sữa: canxi và vitamin D cần thiết cho xương, cơ, thần kinh.

Quan niệm sai lầm hay gặp là kiêng uống sữa để tránh sỏi tái phát hoặc ngược lại, sử dụng quá nhiều sữa và sản phẩm của sữa. Đối với bệnh nhân sỏi tiết niệu, các nhà dinh dưỡng khuyên dùng sữa hàng ngày (nhưng phải uống thêm nước và chia nhỏ thành nhiều lần). Sữa và sản phẩm của sữa cung cấp nhiều canxi, với bệnh nhân sỏi tiết niệu cần đưa vào cơ thể khoảng 900mg canxi/ngày, trong khi đó 1 hộp sữa tươi 180ml cho khoảng 200mg canxi; 100gr fromage trắng = 110mg canxi; 125gr sữa chua = 180mg canxi.

Rau: Cần ăn rau trong tất cả các bữa. Rau cung cấp chất xơ, kali, magne... và rất ít năng lượng.

Hoa quả: Ngược lại với rau, hoa quả có rất nhiều đường nên cần hạn chế, chỉ nên ăn 2-3 quả nhỏ mỗi ngày. Nước hoa quả không có chất xơ nhưng có nhiều đường nên cần hạn chế sử dụng như hoa quả.

Tinh bột: cơm, bánh mỳ, đậu... cung cấp nhiều tinh bột, đường, vitamin, chất khoáng. Tinh bột được sử dụng trong các bữa ăn để tùy theo nhu cầu cung cấp năng lượng.

Chất béo: Số lượng chất béo tiêu thụ hàng ngày tùy theo nhu cầu năng lượng cơ thể. Chất béo cung cấp acid béo, vitamin A, D và E. Hiện nay việc cung cấp DHA và EPA thường chưa đủ. Chất béo nguồn gốc thực vật rất tốt, chúng cung cấp kali, magne và chất xơ.

Vitamin D: Tình trạng thiếu hụt vitamin D rất phổ biến ngay cả với chế độ ăn đa dạng và cân bằng. Lưu ý rằng, vitamin D có nhiều trong dầu ăn, sữa.

Muối: Sử dụng nhiều muối gây tăng natri trong nước tiểu dẫn đến việc đào thải nhiều canxi, oxalate, cystine, acide uric là các chất dễ lắng đọng trong nước tiểu gây ra sỏi. Mỗi ngày cần dùng 6-8g muối chia đều trong các món ăn. Để biết chính xác lượng muối cung cấp đủ hay không dựa vào hàm lượng muối trong nước tiểu (bình thường từ 100-150meq/ngày).

Công thức tính lượng muối cần dùng mỗi ngày dựa theo hàm lượng muối trong nước tiểu: natri nước tiểu 24 giờ tính theo mmol/17 = gr muối/ngày. Cần lưu ý các loại thức ăn chứa nhiều muối, chia đều lượng muối trong các bữa ăn, nên dùng thêm rau thơm, phẩm màu thực vật để giảm lượng muối.

Tăng khả năng chống sỏi tái phát

Việc tăng tiêu thụ citrate, potassium và magnesium trong khẩu phần ăn hàng ngày giúp việc chống tạo sỏi. Nên dùng các loại nước chanh, rau xanh, ngũ cốc, bánh mỳ, đậu.

Người thân trong gia đình có trách nhiệm nhắc nhở bệnh nhân thực hiện đúng và thường xuyên chế độ dinh dưỡng. Việc tham gia câu lạc bộ nhưng người bị sỏi sẽ tăng cơ hội trao đổi kinh nghiệm trong việc phòng chống sỏi tái phát.

Những nguyên tắc mới phù hợp với bệnh sỏi tiết niệuPhải đạt được sự bài tiết nước tiểu với số lượng nhiều hơn người bình thường.Sử dụng thực phẩm đa dạng và cân bằng, phù hợp với từng bệnh nhân. Hết sức lưu ý đến việc phân bố giữa các bữa ăn.Bổ sung vitamin D, B6, chất xơ, kali, magnesium.Ðặc biệt lưu ý đến những thực phẩm dễ tạo sỏi là muối và thịt.

BS. Lê Sĩ Trung

Bệnh gút ngày càng gia tăng và khó điều trị, tại sao?

Nhiều bệnh nhân vì không được chẩn đoán và điều trị đúng một thời gian dài nên phải gánh chịu nhiều hậu quả xấu của bệnh. Sự thiếu hiểu biết đã làm cho gút - một bệnh vốn dễ chẩn đoán và dễ kiểm soát đã trở thành một bệnh nan y.

Gút là một bệnh lý viêm khớp do rối loạn chuyển hóa các purin (quá trình chuyển hóa các acid nhân của mọi tế bào), một bệnh lý quan trọng nhất trong nhóm các bệnh khớp do tinh thể (Crystal Arthropathies) đưa đến tình trạng tăng acid uric trong máu.

Tình trạng tăng acid uric có thể do tăng sản xuất acid uric trong cơ thể hoặc giảm bài xuất acid uric ra ngoài cơ thể hoặc do cả hai quá trình trên. Và hậu quả là sự lắng đọng các tinh thể muối urate ở các mô trong cơ thể. Khi nồng độ acid uric trong máu tăng lên, dẫn tới lắng đọng tinh thể urat tại các khớp, sụn, xương, tổ chức dưới da, các mô ngoài khớp, nhu mô và ống thận, mạch máu… gây bệnh gút và các biến chứng từ nhẹ đến nặng của bệnh.

Bệnh gút ngày càng gia tăng và khó điều trị, tại sao?Lắng đọng tinh thể urat ở các cơ quan trong bệnh gút mạn tính.

Bệnh thường gặp ở quý ông

Bệnh gút thường gặp ở những quý ông sau tuổi 30, có cơ địa đặc biệt (rối loạn chuyển hóa purin và rối loạn chuyển hóa) thường xuyên sử dụng các thực phẩm giàu đạm và uống nhiều rượu bia. Có thể nói, thói quen ăn uống không kiểm soát là một nguyên nhân quan trọng khiến nam giới có nguy cơ mắc bệnh gút cao hơn nữ giới.

Không như những bệnh viêm khớp khác, bệnh gút hiếm gặp ở phụ nữ (chỉ khoảng 10% bệnh nhân là nữ). Trong đó, 90% bệnh nhân nữ phát bệnh sau tuổi mãn kinh. Ở phụ nữ, estrogen (hormon sinh dục nữ) đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng giữa quá trình tổng hợp và đào thải acid uric trong máu. Đây cũng là lý do phụ nữ trẻ rất ít khi bị gút. Tuy nhiên, khi bước sang thời kỳ mãn kinh, mức estrogen suy giảm sẽ kéo theo sự gia tăng nồng độ acid uric trong máu, vì vậy sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh gút ở phụ nữ lớn tuổi.

Nguyên nhân khiến bệnh gút ngày càng gia tăng

Mức sống và lối sống có ảnh hưởng rõ rệt tới tỉ lệ mắc bệnh. Mức sống và điều kiện kinh tế của nhân dân ta đã tăng lên rõ rệt và có sự thay đổi lối sống theo kiểu phương tây... Những điều này đã góp phần thay đổi cơ cấu bệnh tật của nước ta. Các bệnh được coi là của các nước phát triển đã ngày càng xuất hiện nhiều ở nước ta, trong đó phải kể đến bệnh gút cùng tỉ lệ tăng acid uric máu khá cao. Một số lý do làm gia tăng các bệnh này là:

Tăng lượng tiêu thụ bia, rượu ở cộng đồng; Tăng sử dụng thiazide và liều nhỏ aspirin cho các bệnh lý tim mạch; Tăng sử dụng chế độ ăn giàu purin (thịt đỏ, nội tạng động vật như gan, lòng bò, lòng heo…); Gia tăng các bệnh lý chuyển hóa như béo phì, tăng huyết áp....

Gia tăng tỉ lệ người trên 65 tuổi và có mối liên quan giữa sự lắng đọng tinh thể urate và sụn khớp bị thoái hóa.

Gia tăng và kéo dài cuộc sống của các bệnh nhân suy thận mạn (gia tăng số bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối và bệnh nhân ghép thận).

Các yếu tố làm bệnh gút tiến triển nặng

Việc sử dụng tùy tiện, dài ngày các thuốc kháng viêm loại corticosteroid, aspirin, thuốc lợi tiểu thiazide, đặc biệt là corticosteroid vừa làm bệnh nặng lên vừa gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm như thay đổi hình dạng cơ thể, loãng xương, teo cơ, nhiễm trùng, viêm loét đường tiêu hóa, suy tuyến thượng thận, thúc đẩy nhanh việc hình thành các tophi...

Các bệnh thường đi kèm với bệnh gút như tăng huyết áp, bệnh thận mạn, đái tháo đường, bệnh mạch vành, béo phì… cũng làm cho bệnh diễn biến phức tạp hơn và khó kiểm soát hơn. Kiểm soát tốt các bệnh trên cũng ảnh hưởng tốt tới tiến triển của bệnh.

Gút có phải là bệnh bất trị?

Gút là một loại bệnh viêm khớp đáp ứng tốt với điều trị. Nếu được điều trị đúng, ngay ở giai đoạn cấp tính, bệnh có thể được kiểm soát tốt bằng thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý. Các đợt viêm khớp sẽ không tái diễn, bảo tồn được cấu trúc và chức năng của khớp, tránh được các biến chứng của bệnh.

Bệnh gút ngày càng gia tăng và khó điều trị, tại sao?

Hiện nay, đã có thêm hiểu biết về chuyển hóa purin trong cơ thể, có thêm các trị liệu mới, hiệu quả và an toàn. Các trị liệu này giúp cho việc kiểm soát bệnh tốt hơn, đặc biệt trên các bệnh nhân bị bệnh thận mạn, suy thận, dị ứng thuốc hay không đáp ứng với các thuốc trị gút trước đây.

Ở nước ta, bệnh gút có thể được chẩn đoán sớm ở các bệnh viện tuyến tỉnh và nhiều bệnh viện tuyến huyện vì không đòi hỏi các phương tiện kỹ thuật hiện đại.

Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân vì không được chẩn đoán và điều trị đúng một thời gian dài nên phải gánh chịu nhiều hậu quả xấu của bệnh và hậu quả xấu của việc điều trị không hợp lý. Đa số bệnh nhân gút thường có xu hướng tự mua thuốc điều trị, việc tự điều trị này đồng nghĩa với bệnh sẽ không được kiểm soát đúng, bệnh sẽ nặng thêm và trở thành bất trị. Nhiều bệnh nhân đã ở giai đoạn nan y và tàn phế: biến dạng, mất chức năng của nhiều khớp, loét và chảy máu đường tiêu hóa, sỏi thận, suy thận giai đoạn cuối...

Mọi người, đặc biệt nam giới tuổi trung niên, cần cảnh giác với các hiện tượng sưng đau đột ngột, bất thường ở ngón chân, bàn chân, cổ chân... Khi có bệnh, cần tới các thầy thuốc chuyên khoa sớm để được chẩn đoán xác định và điều trị đúng ngay từ đầu để bệnh khỏi trở thành bệnh nan y.

Mối liên quan giữa bệnh gút và bệnh thận mạnTăng acid uric máu, bệnh gút và bệnh thận mạn có liên quan chặt chẽ với nhau, nồng độ acid uric máu cao là yếu tố nguy cơ độc lập giúp dự báo bệnh thận mạn, nồng độ acid uric máu cao làm chức năng thận xấu đi, chức năng thận giảm sút làm giảm thải trừ acid uric... Có tới 70% bệnh nhân gút có bệnh thận mạn giai đoạn 2-3. Tăng acid uric máu là yếu tố thúc đẩy tiến trình của bệnh thận mạn nhưng cũng có thể là hậu quả của việc giảm thải acid uric qua thận (do giảm chức năng, do di truyền, do ảnh hưởng của thuốc...). Chính vì vậy, việc kiểm soát chặt chẽ acid uric máu là một mục tiêu quan trọng trong điều trị bệnh thận mạn.

PGS.TS.BS. Lê Anh Thư

Truyền hình trực tuyến: Giúp bé ngon miệng khi ăn dặm và đi nhà trẻ

Mời các bạn theo dõi video chương trình:


Ăn dặm là giai đoạn rất quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ. Nếu những người chăm sóc trẻ bỏ qua những khuyến cáo khoa học khi cho trẻ ăn dặm thì có thể vô tình làm cho sức khỏe và sự phát triển của trẻ bị ảnh hưởng. Trẻ sẽ bị bệnh vì sức đề kháng yếu do nhu cầu dinh dưỡng không đủ, hoặc trẻ bị suy dinh dưỡng dẫn đến còi cọc, chậm phát triển về thể chất và trí tuệ, từ đó khiến trẻ khó bắt nhịp với các bạn đồng trang lứa khi bước vào tuổi đi nhà trẻ.

Các chuyên gia y tế cho rằng, khi cho trẻ ăn dặm quá sớm sẽ ảnh hưởng tới hệ tiêu hóa của trẻ do cơ quan tiêu hóa của trẻ chưa hoàn thiện, còn nếu cho trẻ ăn dặm quá muộn, có thể khiến bé bị thiếu dinh dưỡng, chậm lớn, dễ mắc bệnh. Nhiều bậc cha mẹ có con trong độ tuổi ăn dặm hoặc bắt đầu đi nhà trẻ thường rất bối rối không biết cho trẻ ăn thế nào? Ăn món gì? Độ tuổi ăn dặm bao nhiêu là tốt nhất? Và làm sao để trẻ hào hứng với việc ăn uống?...

Nhằm cung cấp cho bạn đọc những kiến thức mới nhất về cách đúng và khoa học cho trẻ ăn dặm, giúp trẻ hợp tác với việc ăn uống, chuẩn bị tốt nhất cho bé khi bước vào tuổi đi nhà trẻ … , đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc xung quanh vấn đề này, Báo điện tử Sức khỏe&Đời sống -suckhoedoisong.vn tổ chức buổi tư vấn Truyền hình trực tuyến với chủ đề “Giúp bé ngon miệng khi ăn dặm và đi nhà trẻ ”.

Khách mời tham gia chương trình gồm:


TS.BS Phan Bích Nga - Giám đốc Trung tâm Khám, tư vấn dinh dưỡng trẻ em, Viện Dinh dưỡng Quốc gia


Chuyên gia tâm lý, kỹ năng sống, TS. Vũ Thu Hương - Giảng viên khoa Giáo dục tiểu học, ĐH Sư phạm Hà Nội.

Dẫn chương trình: MC Anh Thư

Chương trình được truyền hình trực tuyến trên Suckhoedoisong.vn, trên kênh Youtube và fanpage của Báo Sức khoẻ & Đời sống bắt đầu từ 14h30, thứ Ba, ngày 23/1/2018.

Bạn đọc có thể gửi câu hỏi về tòa soạn ngay từ bây giờ theo địa chỉ:

Email:bandientuskds@gmail.com

Hoặc gọi theo số 024 6661 8272 trong thời gian diễn ra chương trình

Hoặc điền vào mẫu phía dưới trang.

Trong mỗi chương trình chúng tôi cũng sẽ có những câu hỏi tương tác tới khán giả và những khán giả có câu trả lời chính xác và nhanh nhất, đồng thời like và share thông tin của chương trình sẽ nhận được những phần quà.

Báo điện tử Sức khoẻ & Đời sống (Suckhoedoisong.vn) trân trọng cảm ơn TS.BS Phan Bích Nga - - Giám đốc Trung tâm Khám, tư vấn dinh dưỡng trẻ em, Viện Dinh dưỡng Quốc gia; Chuyên gia tâm lý, kỹ năng sống, TS. Vũ Thu Hương - Giảng viên khoa Giáo dục tiểu học, ĐH Sư phạm Hà Nội đã nhận lời tham gia chương trình.

Mời độc giả tham gia chương trình tương tác truyền hình trực tuyến

Khán giả tương tác với chương trình:1. Like Fanpage Báo Sức khoẻ và đời sống2. Share link sự kiện của chương trình.3. Trả lời câu hỏi của chương trình chính xác và nhanh nhất.

Những khán giả có câu trả lời chính xác nhất và nhanh nhất sẽ được chúng tôi công bố và nhận được những phần thưởng từ chương trình.

Câu hỏi tương tác 1:

Cha mẹ nên cho trẻ ăn dặm ở độ tuổi nào?

A: 4 tháng

B: 6 tháng

C: 8 tháng

Đáp án đúng là C

Chúc mừng độc giả có facebook là Ngọc Trịnh Thị đã trúng thưởng câu hỏi số 01 của chương trình !

Câu hỏi tương tác 02:

Appetito Bimbi – Siro ăn ngon 3 tác động chứa đặc tính nào sau đây?

A: Sử dụng 100% từ thảo dược chuẩn hóa châu u.

B: Được sản xuất trên dây truyền cGMP-FDA – Hoa Kỳ

C: Được khuyên dùng bệnh viện công ở châu u và có mặt 48 quốc gia

D: Cả 3 đáp án trên

Đáp án đúng là D

Chúc mừng độc giả có facebook là Suri Nguyễn đã trúng thưởng câu hỏi số 02 của chương trình !

Trân trọng cám ơn nhãn hàng Appetito bimbi- Trẻ biếng ăn đã đồng hành cùng chương trình!

Hải Yến

Ngứa ống tai

Dương Thuý Bình(thuybinh@gmail.com)

Có nhiều nguyên nhân gây ngứa tai: do viêm tai ngoài, viêm da tiết nhầy, vẩy nến, bị trầy xước hoặc ngoáy tai quá mạnh… trong đó đáng nói nhất là bệnh ống tai ngoài. Các triệu chứng đầu tiên của bệnh viêm ống tai là ngứa tai, mức độ ngứa ngày càng nhiều khi ngoáy tai, sau đó có cảm giác tức tức trong ống tai rồi bắt đầu cảm giác đau tai, đau đến mức đặc biệt khi nhai hoặc ngáp. Trường hợp nặng có thể đi kèm sốt 38 - 39ºC, sưng tấy nửa mặt bên tai đau, chạm nhẹ vào tai cũng đã cảm thấy đau. Bệnh có nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau cần phải thăm khám cụ thể mới có được kết luận chính xác. Nếu khi bạn bị ngứa tai ở dạng nghẹ, bạn có thể dùng tăm bông để ngoáy tai cho sạch, cho hết ngứa hoặc tập trung làm việc gì đó sẽ nhanh chóng quên đi cảm giác ngứa tai. Tuy nhiên nếu tình trạng bệnh đã nặng, ngứa quá nhiều khiến người bệnh khó chịu, mất ăn mất ngủ, có thêm nhiều triệu chứng khác như: đau nhức tai, chảy mủ tai, ù tai, nghe kém… cần phải đến các cơ sở y tế thăm khám để có phương pháp điều trị thích hợp. Một số cách phòng ngừa, vệ sinh tai để tránh ngứa tai: Không nên ngoáy tai quá nhiều vì ráy tai vốn là một lớp màng bảo vệ ngăn bụi bẩn vào trong tai; Khi đi bơi nên dùng dụng cụ bảo vệ tai tránh có nước vào. Lau khô không để tai bị ướt sau khi tắm, đi bơi; Tránh nút hoặc sử dụng tai nghe quá nhiều. Không tự ý uống thuốc khi chưa có chỉ dẫn của các bác sĩ điều trị nhằm tránh biến chứng gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.

BS. Trần Duy Minh

Cước do lạnh chữa thế nào?

Phạm Thị Phương (Thái Bình)

Cước là một loại chấn thương do lạnh thường xuất hiện vào mùa đông, đầu mùa xuân và hay gặp ở những người lao động chân tay như: nông dân, người làm ngề chài lưới, chèo đò, vận động viên đua thuyền... và cũng hay gặp ở nhóm người bị thiểu năng tuần hoàn ngoại vi.

Do khí hậu lạnh, độ ẩm cao gây kích thích co mạch ngoại vi làm cho tổ chức vùng đó bị thiếu ôxy nuôi dưỡng dẫn đến hoại tử tế bào, tạo thành những đám da phù nề màu đỏ sẫm đôi khi có mụn nước, xuất huyết, trợt loét rất lâu lành. Người bệnh cảm thấy đau đớn vùng bị tổn thương, thâm tím khi nhúng vào nước lạnh và ngứa ngáy khi được ủ ấm làm ảnh hưởng nhiều đến lao động và sinh hoạt. Vị trí thương tổn hay gặp ở các ngón chân, bàn chân, ngón tay, bàn tay, tai và mũi.

Cước được chia làm hai thể: cước cấp tính và mạn tính.

- Cước cấp tính hay gặp ở trẻ em, là thể nhẹ của chấn thương do lạnh và nhanh khỏi không tái phát.

- Cước mạn tính là thể nặng, gặp ở người có tuổi, mùa đông nào cũng bị, khỏi hoàn toàn về mùa hè và lại tái phát vào mùa đông năm sau. Bệnh có thể đi kèm với cryoglobulin niệu hoặc lupus ban đỏ, xơ cứng bì.

Đề phòng cước các bạn nên giữ ấm cơ thể bằng cách mặc đủ ấm, đi găng tay, đội mũ len, đeo khẩu trang, đi bít tất len và sưởi ấm sau khi nhiễm lạnh. Khi đã bị cước các bạn nên đến khám tại các phòng khám chuyên khoa da liễu để được hướng dẫn điều trị đúng cách. Có thể dùng một số loại thuốc sau:

+ Nifedipin 20mg 3 lần một ngày. Đây là thuốc điều trị tim mạch, huyết áp có tác dụng giãn mạch ngoại vi tăng cường nuôi dưỡng tế bào.

+Nicotinamide (astymicin fort) 100mg 3 lần một ngày hoặc dipyridamole 25mg 3 lần một ngày. Thuốc có tác dụng cải thiện tuần hoàn ngoai vi và tăng cường chất dinh dưỡng cho tế bào. Ngoài ra tại chỗ bôi mỡ corticoide, xoa dầu nóng như cao sao vàng, dầu phật linh, dầu quế... ngâm chân tay vào nước gừng ấm trước khi đi ngủ. Khi bị hoại tử phải rửa vết thương và băng vô trùng, thay băng hàng ngày. Ăn đủ chất dinh dưỡng nhất là những chất giàu đạm, không uống rượu bia, không hút thuốc lá thuốc lào.

ThS. Đỗ Xuân Khoát

U lành tính vùng mũi xoang: càng mổ sớm càng nhẹ nhàng

Chuyện tưởng nhỏ nhưng không hề đơn giản

U lành tính vùng mũi xoang nếu không điều trị có thể gây ra rất nhiều phiền toái cho sức khỏe và đời sống sinh hoạt của người bệnh.

U lành tính vùng mũi xoang thực chất là những tăng trưởng bất thường phát triển phía trong mũi và ở các xoang. Khi nghe đến “lành tính” nhiều người có tâm lý chủ quan, cho rằng bệnh không quá nguy hiểm nên không nhất thiết phải điều trị, có thể “chung sống hòa bình”. Tuy nhiên thực tế cho thấy chúng có thể dẫn tới nhiều biến chứng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống nếu không xử lý sớm, chẳng hạn như:

Polyp mũi: polyp mũi hình thành từ lớp niêm mạc của mũi hoặc của các xoang. Trong nhiều trường hợp polyp mũi không gây ra bất cứ ảnh hưởng gì nghiêm trọng đến sức khỏe nhưng có khi lại kéo theo nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm xoang cấp hoặc mạn tính, khó thở tắc nghẽn lúc ngủ, biến đổi cấu trúc của mặt gây song thị (nhìn đôi) hoặc 2 mắt xa nhau bất thường. U xơ vòm mũi họng: đây là một bệnh lý phổ biến ở tuổi dậy thì, thường gặp ở nam giới, tuổi từ 15 – 25. U xơ vòm mũi họng là một khối u lành tính nhưng có khả năng lan rất rộng, phá hủy xương mạnh, làm suy giảm sức khỏe và nguy hiểm tới tính mạng người bệnh nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời. U nhầy mũi xoang: là loại u gặp ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu ở người lớn. Tuy là u lành tính nhưng thường có triệu chứng chèn ép ổ mắt, dễ gây biến dạng vùng mặt. U xương các xoang cạnh mũi, u nang răng sinh, u bã đậu…cũng là những loại u lành tính vùng mũi xoang thường gặp.

Phẫu thuật là cách điều trị chính của u lành tính vùng mũi xoang

Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính của phần lớn các trường hợp u lành tính vùng mũi xoang. Trong ảnh bác sĩ CKI Dương Văn Tiến đang tái khám, kiểm tra vết mổ cho người bệnh.

Điều trị các khối u lành tính vùng mũi xoang tùy thuộc vào vị trí, kích thước, mức độ lan tỏa của khối u và tình trạng sức khỏe của người bệnh. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính của hầu hết các trường hợp u lành tính vùng mũi xoang. Có hai loại phẫu thuật chính là:

Mổ mở: bác sĩ sẽ tạo một vết mổ ở gần mũi hoặc trong miệng để tiếp cận khoang mũi hoặc xoang. Tiếp đến là sử dụng dụng cụ chuyên biệt để cắt bỏ khối u và bất cứ vùng nào bị ảnh hưởng, chẳng hạn như xương gần đó. Mổ nội soi: trong những trường hợp nhất định, bác sĩ phẫu thuật có thể tiếp cận khối u bằng cách sử dụng nội soi mũi và các dụng cụ đặc biệt. Ống nội soi có gắn camera và nguồn sáng sẽ cung cấp hình ảnh chi tiết bên trong vùng mũi xoang để các bác sĩ tiến hành xử lý khối u.

Theo chia sẻ của bác sĩ CKI Dương Văn Tiến (Trưởng Phòng khám Tai Mũi Họng – Bệnh viện ĐKQT Thu Cúc), người bệnh nên điều trị sớm, nếu bắt buộc phải mổ thì càng xử lý sớm càng đơn giản và nhẹ nhàng. “Đơn cử như trường hợp một khách hàng người nước ngoài mới đây tại Bệnh viện Thu Cúc phát hiện có u lành tính ở gốc mũi. Mặc dù thời điểm hiện tại chưa có triệu chứng hay bất cứ biểu hiện khó chịu nào nhưng nếu để khối u to dần lên, bệnh nhân sẽ phải chịu nhiều triệu chứng khó chịu như ngạt mũi… ảnh hưởng xấu tới sinh hoạt hàng ngày. Sau khi được tư vấn, người bệnh quyết định sẽ phẫu thuật để cắt bỏ khối u. Ca mổ rất nhanh chóng và nhẹ nhàng, chỉ sau 30 phút là đã hoàn thành. Bệnh nhân cũng ra viện ngay trong ngày. Vết mổ hồi phục tốt, các chức năng khác không bị ảnh hưởnh, người bệnh rất hài lòng.”

Lưu ý dành cho người bệnh phẫu thuật u lành tính vùng mũi xoang

Các khối u lành tính nằm ở vùng mũi xoang có vị trí gần với các cấu trúc quan trọng ở đầu như não, mắt và dây thần kinh kiểm soát thị lực. Bác sĩ phải có trình độ chuyên môn vững vàng, giàu kinh nghiệm thì mới có thể xử lý hiệu quả và an toàn. Tốt nhất người bệnh nên lựa chọn điều trị tại các bệnh viện uy tín, có đội ngũ bác sĩ giỏi, hệ thống phòng mổ và trang thiết bị y tế đầy đủ.

Khoa Ngoại – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thu Cúc là một địa chỉ thực hiện phẫu thuật u lành tính vùng mũi xoang uy tín mà người bệnh có thể lựa chọn. Tại đây, bệnh nhân được:

Thăm khám và phẫu thuật với bác sĩ giỏi, có thể kể đến như bác sĩ CKI Tai Mũi Họng Dương Văn Tiến với hơn 30 năm kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực này. Sắp xếp lịch mổ nhanh, đúng theo mong muốn của người bệnh.Chi phí hợp lý, có áp dụng thanh toán bảo hiểm y tế và liên kết với nhiều hãng bảo hiểm phi nhân thọ. Thủ tục linh hoạt, hỗ trợ tối đa.Chăm sóc sau mổ chu đáo, cẩn thận.

Bệnh viện Thu Cúc làm việc tất cả các ngày trong tuần, luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn bất cứ lúc nào. Gọi ngay 1900 558896 hoặc 0904 97 0909 để được tư vấn chi tiết.

Thoải mái ăn Tết to, không lo bệnh gút

Năm mới khởi đầu bằng một chuyện kém vui

Dịp Tết năm ngoái, chỉ vì hết mình với anh em trong bữa tiệc tất niên mà đến đêm bác T. (60 tuổi) được một phen khốn khổ vì cơn đau gút hoành hành. Dù đã uống thuốc giảm đau và cố gắng cầm cự nhưng đến sáng hôm sau bác đã kiệt sức vì cả đêm mất ngủ và đau đớn. Vợ con tá hóa đưa bác đi cấp cứu, vậy là năm đó, cả gia đình bác cùng ăn Tết trong bệnh viện.

“Đến giờ, tôi vẫn còn ám ảnh cảnh tượng buồn hiu trong bệnh viện ngày Tết. Nếu tôi không ham hố tỉ thí với bạn bè thì có lẽ cả nhà đã có một cái Tết vui vẻ và trọn vẹn hơn” – Bác T. tự nhủ.

Bệnh gút làm gián đoạn niềm vui đón Tết

Không muốn đi lại vết xe đổ cũng như rất sợ việc phiền lụy đến người thân nên bác T. quyết tâm đương đầu với bệnh gút. Bởi bác cũng muốn như bao người bình thường khác, được đón một cái Tết đúng nghĩa, được đi chúc Tết, vui xuân hoan hỉ với bạn bè, được trà dư tửu hậu mà không sợ cơn đau gút đột ngột tấn công làm tụt cảm xúc. Với lại theo bác, một năm mới cần được mở đầu bằng những điều may mắn, chứ năm nào cũng dắt díu nhau gõ cửa bệnh viện chỉ vì gút thì còn gì là vui tươi, hạnh phúc nữa.

Nói là làm, bác T. lên mạng tìm đọc rất nhiều tài liệu về bệnh gút, bác còn tập hợp cả một danh sách các nguyên tắc trong phòng và trị bệnh để áp dụng theo. Đầu tiên, bác tiết giảm bia rượu, ăn ít thực phẩm chứa nhân purin có trong thịt bò, thịt dê, thịt ngựa, các loại hải sản, các loại đậu và một số loại rau như măng tre, măng tây… Bác cũng tăng cường ăn thực phẩm giàu chất xơ có trong rau, củ quả tươi và uống nhiều nước lọc để gia tăng đào thải của thận. Mỗi ngày bác cũng dành khoảng 30 phút để đi xe đạp, đi bộ hoặc đánh cầu lông.

Nhờ ăn uống, sinh hoạt hợp lý, bác T. thấy sức khỏe tốt hơn trước. Bác cũng tìm đến một số bài thuốc trị gút từ lá tía tô, lá trầu không nhưng cứ được vài tuần hoặc vài tháng cơn đau gút lại ghé thăm khiến bác “đang vui thì dứt dây đàn”.

Cần tăng cường thực phẩm giàu chất xơ ngày Tết

Đón Tết vẹn tròn nhờ kế sách hay

Cứ tưởng cuộc chiến với gút mạn tính sẽ rơi vào bế tắc thì trong một lần lướt mạng, bác T. đọc được tin về một sản phẩm giúp tiêu tan nỗi lo bệnh gút. Điều khiến bác T. ấn tượng ở sản phẩm không hẳn là do sản phẩm này được chiết xuất từ thảo dược thiên nhiên mà là tác dụng bổ thận, tăng cường chức năng đào thải của thận, giúp trị gút từ căn nguyên của thận đến từ cây Tơm Trơng – thảo dược quý của núi rừng Tây Nguyên.

Không chút đắn đo, bác T. mua sản phẩm về uống và cảm thấy giảm đau rõ rệt tại các khớp xương chỉ sau một tháng sử dụng. Uống hết tháng thứ 2, tình trạng sưng viêm tại các khớp của bác cũng thuyên giảm hẳn, tần suất xuất hiện cơn đau gút thưa dần, bác ăn ngủ ngon và tinh thần thoải mái hơn. Sử dụng sản phẩm hết 5 tháng, chỉ số acid uric của bác T. đã về mức bình thường và gần như các cơn đau gút không còn hiện diện.

“Ông bạn hàng xóm khoe là mặc dù cũng bị bệnh gút nhưng vẫn đón Tết vui vẻ bên gia đình nhờ sử dụng đều đặn Hoàng Tiên Đan nhưng tôi đã không tin. Tôi nghĩ mình đã sai thật rồi ” – Bác T. bày tỏ.

Niềm vui của bác T. như được nhân đôi khi tuyển U23 Việt Nam vừa làm nên kỳ tích tại đấu trường châu lục. Nhân sự kiện đặc biệt đó, bác T. có chủ trì một bữa tiệc mừng và điều kỳ lạ là dù bác có ăn thực phẩm giàu đạm và uống rượu nhưng cơn đau gút tuyệt nhiên không xuất hiện.

Tết này, chắc chắn bác T. sẽ làm tất thảy những việc đang ấp ủ mà không cần bận tâm đến bệnh gút. Nếu lỡ dại uống vài chén rượu, cốc bia hay ăn chút cua ghẹ thì đã có Hoàng Tiên Đan gánh trên vai nhiệm vụ thải trừ acid uric…

Với thành phần then chốt là hoạt chất Phytosterol trong cây Tơm Trong từ núi rừng Tây Nguyên kết hợp cùng Khúc Khắc, Dâm Dương Hoắc và Vỏ cây liễu trắng, Hoàng Tiên Đan giúp bổ thận, tăng cường chức năng đào thải của thận, kiểm soát chỉ số acid uric, giảm đau và chống sưng viêm một cách tự nhiên, từ đó giúp đẩy lùi gút cấp và mạn tính từ căn nguyên của thận.

Hoàng Tiên Đan – Tiêu Tan nỗi lo bệnh gút

Thông tin liên hệ:

Tổng đài tư vấn miễn cước: 1800.6960

Đơn vị phân phối: Công ty TNHH Dược Nhân Hưng

Địa chỉ: Số 3 Đường Quách Văn Tuấn, Phường 12, Quận Tân Bình, TP.HCM

GPQC số: 01858/2017/ATTP-XNQC

Sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh